Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 80/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 80/2023/HS-ST NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 27 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Th, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2023/QĐXXST-HS, ngày 13 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

Hồ Văn T, sinh ngày 20/7/1994 tại tỉnh Ng; Nơi cư trú: Thôn 1, xã Q, huyện Q, tỉnh Ng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Văn Đ và bà Vũ Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 24/3/2023; (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Văn T: Ông Lê Huy Th, sinh năm 1961 – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư D và cộng sự - Đoàn Luật sư tỉnh Ng; Địa chỉ văn phòng: Tầng 3 số 146 đường Ng, thành phố V, tỉnh Ng.

- Bị hại:

+ Anh Bùi Văn Q, sinh năm 1981 Nơi cư trú: Thôn Q, xã T, huyện K, tỉnh Th;

+ Cháu Bùi Ngọc S, sinh năm 2012 (đã chết) Người đại diện hợp pháp của cháu Bùi Ngọc S:

+ Anh Bùi Văn Q, sinh năm 1981 (bố đẻ của cháu S)

+ Chị Trịnh Thị Th, sinh năm 1987 (mẹ đẻ của cháu S) Đều cư trú tại địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện K, tỉnh Th (Anh Q và chị Th đều vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của anh Bùi Văn Q và chị Trịnh Thị Th:

Ông Bùi Văn T, sinh năm 1963; Nơi cư trú: thôn Q, xã T, huyện K, tỉnh Th (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Thương mại vận tải T; Địa chỉ: số 78, đường N, khối T, phường H, thành phố V, tỉnh Ng.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Kim H, Giám đốc Công ty.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Huy Th, sinh năm 1961 – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư D và cộng sự - Đoàn Luật sư tỉnh Ng; Địa chỉ văn phòng: Tầng 3 số 146 đường Ng, thành phố V, tỉnh Ng (Có mặt).

- Người làm chứng:

+ Chị Trịnh Thị Th, sinh năm 1987

+ Anh Bùi Văn V, sinh năm 1984 Đều cư trú tại: thôn Q, xã T, huyện K, tỉnh Th; (Chị Th và anh V đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Hồ Văn T là lái xe của Công ty TNHH thương mại vận tải T. Khoảng 10 giờ ngày 28/01/2023, T điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-xxxxx kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 37R-xxxxx, có giấy phép lái xe ô tô hạng FC, chở hàng bột sắn từ khu công nghiệp N, huyện Ng, tỉnh Ng ra cảng T, thành phố H. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe ô tô đi đến Km97+500 Quốc lộ 10 thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Th; là đoạn đường được chia làm 02 chiều đường bằng dải phân cách cứng ở giữa, chiều đường T điều khiển xe ô tô theo hướng Nam Định đi Th, được chia làm 03 làn đường (vạch kẻ đường mờ), làn giáp dải phân cách cứng rộng 4,1m được phân cách với làn đường giữa bằng vạch sơn kẻ đường màu trắng nét đứt rộng 0,15m; làn đường giữa rộng 3,5m được phân cách với làn ngoài giáp mép đường bằng vạch sơn kẻ đường màu trắng nét liền rộng 0,2m; làn đường giáp mép đường rộng 2,1m. T điều khiển xe ô tô đi ở làn đường giáp dải phân cách cứng, vận tốc khoảng từ 50km/h đến 55km/h. Lúc này ở phía trước cùng làn đường với xe ô tô do T điều khiển có 01 chiếc xe ô tô con đang di chuyển với tốc độ chậm hơn, T điều khiển xe ô tô chuyển sang làn đường giữa để vượt ô tô con. Cùng lúc ở phía trước bên phải xe ô tô đầu kéo, xe mô tô biển kiểm soát 17B7-xxxxx do anh Bùi Văn Q điều khiển chở phía sau cháu Bùi Ngọc S (con trai anh Q) đang đi ở làn đường giáp mép đường bên phải. Khi xe ô tô do T điều khiển cách xe mô tô do anh Q điều khiển khoảng 45 mét, T bấm còi nhưng không giảm tốc độ và đi thẳng, không đánh lái sang trái để giữ khoảng cách và vượt không đảm bảo an toàn với xe mô tô nên phần đầu bên phải xe ô tô do T điều khiển đã va chạm với anh Q làm xe mô tô bị đổ sang trái và văng rê về phía lề đường làm anh Q và cháu S ngã xuống mặt đường, cháu S bị xe ô tô do T điều khiển đè qua người, chết tại hiện trường; anh Q bị thương được nhân dân và gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Th, sau đó chuyển Bệnh viện Việt Đức, thành phố Hà Nội. Đến ngày 16/02/2023, chuyển về Bệnh viện đa khoa tỉnh Th tiếp tục điều trị, ngày 28/02/2023 anh Q xuất viện.

Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 206/KLTTCT- TTPY 25/7/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Th, kết luận: “Anh Q bị thương vùng đỉnh chẩm trái có vết sẹo nhỏ; mi trên mắt trái có vết sẹo nhỏ; từ góc trong mắt trái đến gò má trái có vết sẹo nhỏ; vùng cổ trước có vết sẹo nhỏ; mỏm cụt vùng vai trái: Trên vùng mỏm cụt này thấy có vết sẹo mổ cũ từ vùng mặt trước vai trái đến đầu mỏm cụt đến mặt sau vai trái kích thước (23x1,5)cm xung quanh xây xát da đã bong vảy; đường nách sau có 03 vết sẹo nhỏ; mặt trước trong đùi trái có vết sẹo trung bình; tháo khớp vai trái; gãy cũ các xương sườn 2,3,4,5,6,7 trên phim độ can xi hóa của các chỗ gãy tương đối đồng đều. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 78%”.

Bản kết luận giám định số 108/KL-KTHS ngày 06/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Th, kết luận: “Cháu Bùi Ngọc S chết do chấn thương sọ não và đa chấn thương”.

Bản cáo trạng số 83/CT-VKSVT ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Th đã truy tố bị cáo Hồ Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Hồ Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Th giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hồ Văn T phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;

Về hình phạt: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50; Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Hồ Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/11/2023). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Ng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về bồi thường thiệt hại: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại tổng số tiền là 300.000.000 đồng. Người đại diện theo ủy quyền gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu gì khác, do đó không đặt ra giải quyết.

Về xử lý vật chứng và tài sản: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả cho bị cáo 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 370177000469 ngày 20/4/2022 mang tên Hồ Văn T; Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Th đã trả lại xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-xxxxx kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 37R-xxxxx cho ông Lê Huy Th, sinh năm 1961, nơi cư trú: khối 6, phường C, thành phố V, tỉnh Ng là người được Công ty TNHH thương mại vận tải T ủy quyền. Xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE gắn biển kiểm soát 17B7-130….; 01 mũ bảo hiểm bằng nhựa màu trắng (dạng mũ trùm đầu); một số mảnh nhựa màu đen (dạng mũ bảo hiểm); 01 quần cạp chun vải nilon màu xanh tím than, có 03 đường viền nằm dọc theo ống quần hai bên; 01 áo khoác hai lớp vải nilon màu đen, hiện tại áo bị cắt rách ở phần ống tay áo bên trái; 01 đôi giày dạng giày lười giả da màu nâu; 01 đôi dép xốp cỡ 39 trả lại cho ông Bùi Văn T, sinh năm 1963, nơi cư trú: thôn Q, xã T, huyện K, tỉnh Th là người được anh Bùi Văn Q ủy quyền nên không đặt ra giải quyết Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Th đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với tội danh mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo. Vụ tai nạn xảy ra một phần do có lỗi của bị hại (anh Q có vi phạm nồng độ cồn, điều khiển xe mô tô chuyển làn đường không đúng quy định). Sau khi vụ tai nạn xảy ra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự nguyện khắc phục hậu quả, đại diện gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo cư trú ở vùng bán sơn địa, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bản thân bị cáo là lao động chính của gia đình (theo xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Ng). Vì vậy đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử bị cáo mức án 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo và trả lại Giấy phép lái xe cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của địa phương. Bị cáo rất ân hận về hành vi của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan điều tra. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường vụ tai nạn giao thông; biên bản khám nghiệm tử thi, bản ảnh tử thi; biên bản khám nghiệm phương tiện, bản ảnh phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông; bản kết luận giám định đoạn camera hành trình thu giữ tại xe ô tô do bị cáo điều khiển liên quan đến vụ tai nạn giao thông; bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 206/KLTTCT-TTPY; bản kết luận định giá tài sản; phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu; biên bản ghi lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 28/01/2023, bị cáo Hồ Văn T có giấy phép lái xe ô tô hạng FC, điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-xxxxx kéo theo sơ mi moóc biển kiểm soát 37R- xxxxx đi đến Km 97+500 Quốc lộ 10 theo hướng Nam Định đi Th, do thiếu chú ý quan sát, vượt xe mô tô biển kiểm soát 17B7-xxxxx do anh Bùi Văn Q điều khiển chở phía sau cháu Bùi Ngọc S (là con trai của anh Q) không đảm bảo an toàn, gây tai nạn. Hậu quả của vụ tai nạn khiến cháu S chết tại hiện trường, anh Q bị tổn thương cơ thể là 78%. Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào khoản 23 Điều 8; khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ, gây tai nạn, hậu quả làm chết người, gây thương tích 01 người, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 78%. Vì vậy đã phạm vào tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Điều 8. Luật Giao thông đường bộ: Các hành vi bị nghiêm cấm “1...

23. Hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ”.

Điu 14 Luật Giao thông đường bộ: Vượt xe “1...

2. Xe xin vượt chỉ được vượt kho không có chướng ngại vật phía trước không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải.

Điều 260. Bộ luật Hình sự, Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ “1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về trật tự, an tòan giao thông đường bộ, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người khác. An toàn giao thông hiện nay đang là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng, đã có nhiều chủ trương và biện pháp tích cực để hạn chế góp phần giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông nhằm bảo vệ sức khỏe, tài sản của công dân. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, tuy nhiên thực hiện tội phạm với lỗi vô ý. Theo camera hành trình thì xe ô tô bị cáo điều khiển đi làn giữa, xe mô tô bị hại điều khiển đi phần đường trong cùng vạch kẻ đường liền màu trắng nhưng đã mờ không xác định được vạch kẻ đường. Bị cáo điều khiển phương tiện giao thông do thiếu chú ý quan sát, vượt không an toàn không giảm tốc độ, nên đã để xảy ra tai nạn nghiêm trọng, hậu quả làm cháu Sơn chết tại chỗ và anh Quân bị tổn thương cơ thể là 78%.

[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Hồ Văn T có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; đại diện của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Cần xử phạt bị cáo với mức án như đại diện của Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp, không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần cho bị cáo chịu sự quản lý của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 260 còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”. Bị cáo là lái xe nhưng sau khi tai nạn xảy ra bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định, hành vi của bị cáo chưa đến mức phải áp dụng hình phạt bổ sung là “cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” nên Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về bồi thường thiệt hại: Quá trình điều tra, bị cáo Hồ Văn T đã bồi thường cho gia đình cháu Bùi Ngọc S và bị hại anh Bùi Văn Q tổng số tiền 300.000.000 đồng; gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng và tài sản khác: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Th đã trả lại xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-xxxxx kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 37R-xxxxx cho ông Lê Huy T là người được Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại vận tải T ủy quyền; trả lại xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE gắn biển kiểm soát 17B7-xxxxx; 01 mũ bảo hiểm bằng nhựa màu trắng (dạng mũ trùm đầu); một số mảnh nhựa màu đen (dạng mũ bảo hiểm); 01 quần cạp chun vải nilon màu xanh tím than, có 03 đường viền nằm dọc theo ống quần hai bên; 01 áo khoác hai lớp vải nilon màu đen, hiện tại áo bị cắt rách ở phần ống tay áo bên trái; 01 đôi giày dạng giày lười giả da màu nâu; 01 đôi dép xốp cỡ 39 cho ông Bùi Văn T là người được anh Bùi Văn Q ủy quyền nên không đặt ra giải quyết.

Đối với 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 370177000469 ngày 20/4/2022 mang tên Hồ Văn T, do bị cáo không bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[8] Đối với bị hại anh Bùi Văn Q: Qua camera hành trình xác định quá trình điều khiển xe mô tô tham gia giao thông trước khi xảy ra tai nạn anh Q điều khiển xe đi bên phải theo chiều đi, khi còn cách xe ô tô khoảng 40- 50 mét anh Q điều khiển xe có biểu hiện đi hơi chếch sang phần đường bên trái; điều khiển xe có nồng độ cồn trong máu 44.60 (205,2mg/100ml), vi phạm điểm e khoản 8 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Tuy nhiên hành vi của anh Q không phải là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện V không xử lý đối với anh Q và chuyển vi phạm nêu trên của anh Q đến phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Th để xử lý theo thẩm quyền là phù hợp.

[9] Đối với ý kiến bào chữa của luật sự: Qua nghiên cứu tài liệu trong hồ sơ vụ án và ý kiến tranh luận của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/11/2023). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Ng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Trả lại bị cáo 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 370177000469 ngày 20/4/2022 mang tên Hồ Văn T.

5. Án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Hồ Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 80/2023/HS-ST

Số hiệu:80/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về