Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 75/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN M, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 75/2020/HS-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân quận M, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2020/HSST ngày 09 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2020/QĐXXST – HS ngày 11/11/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy K Tên gọi khác: không.

Sinh ngày 16 tháng 11 năm 2002. Nơi sinh: Cần Thơ.

Nơi đăng ký thường trú: 93A, khu vực T, phường T Đông, quận B, thành phố Cần Thơ.

Nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 07/12; quốc tịch: Việt Nam;

dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 (sống) và mẹ bà Lương Thẳm Thúy H, sinh năm 1982 (sống); anh chị em ruột: có 01 người em sinh năm 2013; vợ, con: chưa.

Tiền sự: không.

Bị cáo Nguyễn Duy K đang bị áp dụng pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

 Người  giám hộ cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 (cha ruột bị cáo). Địa chỉ: 93A, khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.

 Người  bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Ngọc Long U, sinh năm: 1989. Trợ giúp viên pháp lý chi nhánh số 5 – Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Cần Thơ tại quận M.

Đại diện hợp pháp bị hại: Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1967 – Cha ruột bị hại Nguyễn Văn T, sinh năm 1980 (đã chết).

Địa chỉ: 97, Nguyễn Chí T, khu vực 2, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn dân sự:

1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1981; Có mặt.

2. Bà Lương Thẳm Thúy H, sinh năm 1982. Vắng mặt Địa chỉ: 93A, khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.

 Người  có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1967. Địa chỉ: 97 N, khu vực 2, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ. Có mặt.

2. Nguyễn Thanh Huế T, sinh ngày 19/42004. Vắng mặt. Người đại diện hợp pháp: bà Nguyễn Thị H. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.

3. Nguyễn Hoàng Kha, sinh ngày 02/6/2003. Vắng mặt. Người đại diện hợp pháp: bà Nguyễn Lan T. Vắng mặt.

Địa chỉ: khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ  

Người  m chứng: Anh Lê Thanh L, sinh năm: 1993. Địa chỉ: Khu vực B, phường P, quận M, thành phố Cần thơ. Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 22 tháng 7 năm 2020, bị cáo Nguyễn Duy K sinh ngày 16/11/2002, cư trú khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ điều khiển xe mô tô biển số 65U1-69xx (dung tích xi-lanh 110 cm3 ) chở theo ngồi phía sau là em Nguyễn Thanh Quế T, sinh năm 2004, cư trú khu vực T, phường T , quận B, thành phố Cần Thơ, và em Nguyễn Hoàng K, sinh năm: 2003, cư trú ấp T, xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ điều khiển xe mô tô biển số: 95M1-95xx một mình cùng lưu thông trên đường Nguyễn Văn Linh từ hướng quận B đi quận M. Khi đến đoạn Km 14 + 272, đường Nguyễn Văn L thuộc khu vực B, phường P, quận M, K quay mặt ra phía sau tìm, nói chuyện với K, không chú ý quan sát phía trước nên va chạm vào người anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1980, cư trú khu vực B, phường P, quận M, đang đi bộ sát lề, ngược chiều phía trước, làm anh T té ngã xuống đường, xe mô tô do K điều khiển không bị ngã và K điều khiển xe chở T rời khỏi hiện trường, K cũng điều khiển xe mô tô chạy sau, lúc này anh Lê Thanh L, sinh năm 1993, cư trú khu vực B, phường P, quận M đang ngồi uống cà phê trong quán gần đó, chứng kiến sự việc nên mới điều khiển xe mô tô đuổi theo yêu cầu K quay lại và cung cấp số điện thoại của K, Cơ quan điều tra yêu cầu K quay lại hiện trường. Tai nạn xảy ra làm cho anh Nguyễn Văn T bị thương nặng được đưa đến bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ cấp cứu, đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 23/7/2020 thì anh Trinh tử vong tại bệnh viện.

Căn cứ bản kết luận giám định số: 172/KLGĐTT-PC09 ngày 04/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự CATP Cần Thơ kết luận: Nạn nhân Nguyễn Văn T, sinh năm 1980 tử vong do dập não và xuất huyết não, sau chấn thương sọ não nặng.

Qua công tác khám nghiệm hiện trường, tử thi, khám nghiệm phương tiện, lời khai người làm chứng, người có liên quan xác định nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông là do lỗi của Nguyễn Duy K chưa đủ 18 tuổi đã điều khiển xe mô tô biển số 65U1-69xx có dung tích xi-lanh 110cm3, chưa có giấy phép láy xe theo quy định điều khiển xe không chú ý quan sát phía trước nên đã đụng vào người anh Nguyễn Văn T đang đi bộ sát lề lộ, hậu quả làm anh Trinh tử vong, sau khi gây tai nạn cho anh Trinh xong thì tiếp tụcđiều khiển xe mô tô rời khỏi hiện trường.

Đối với Nguyễn Thanh Quế T ngồi phía sau xe của K do xe không té ngã không bị thương tích, nên không có yêu cầu gì đối với K.

Đối với xe mô tô biển số 65U1-69xx là của ông Nguyễn Văn T (cha ruột của K) là chủ sở hữu, việc K lấy xe điều khiển và xảy ra tai nạn ông hoàn toàn không biết nên không có cơ sở để xử lý.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô hiệu hiệu YAMAHA loại Sirius, loại xe nữ, BKS 65U1-69xx, màu sơn: Vàng-đen-xám, dung tích xi lanh: 110cm3, số máy: 5C63226359, số khung: C6309Y226362, xe đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số: 008279 của xe mô tô BKS 65U1-69xx mang tên Nguyễn Văn Tiếp.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình của Nguyễn Duy K đã bồi thường cho gia đình nạn nhân anh Nguyễn Văn T có đại diện ủy quyền là anh Nguyễn Thành L nhận số tiền là 130.000.000 đồng (trong đó: gồm toàn bộ tiền chi phí khám chưa bệnh, ma chay hòm gương, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng nuôi con của anh Trinh và các chi phí khác có liên quan). Hiện anh L không yêu cầu gì thêm và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối K Tại Bản cáo trạng số: 80/CT-VKSOM ngày 06 tháng 11 năm 2020 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận M đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận M để xét xử bị cáo Nguyễn Duy K về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận M Trình bày lời luận tội vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng. Đồng thời phân tích những tình tiết, giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c Khoản 2 Điều 260, Khoản 1 Điều 101; điểm b,s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 27 tháng đến 33 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trả lại cho anh Nguyễn Văn Tgồm: 01 xe mô tô hiệu hiệu YAMAHA loại Sirius, loại xe nữ, BKS 65U1-69xx, màu sơn: Vàng-đen- xám, dung tích xi lanh: 110cm3, số máy: 5C63226359, số khung: C6309Y226362, xe đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số: 008279 của xe mô tô BKS 65U1-69xx mang tên Nguyễn Văn T.

Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu thêm nên không đặt ra xem xét.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất tội danh và khung hình phạt áp dụng với bị cáo và thống nhất các tình tiết giảm nhẹ theo luận tội của kiểm sát viên. Đề nghị cần áp dụng thêm tình tiết ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự như gia đình bị hại có đơn miễn truy cứu trách nhiệm cho bị cáo, lỗi tai nạn một phần do bị hại theo kết luận cơ quan điều tra là đi không đúng phần đường, có sử dụng rượu; bị cáo phạm tội lầm đầu. Đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 1 năm 6 tháng đến 02 năm tù.

Đại diện cho gia đinh bị hại - ông Nguyễn Thành L không yêu cầu bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự và có yêu cầu giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo K.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, xin lỗi gia đình bị hại và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận M, điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; của Viện kiểm sát nhân dân Quận M, Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về căn cứ buộc tội: Lời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can tại cơ quan điều tra; Biên bản sự việc ngày 22/7/2020; Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường ngày 22/7/2020; Bản kết luận giám định số 172/KLGĐTT- PC09 ngày 04/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ; các biên bản ghi lời khai và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:

[3] Vào khoảng 19 giờ 00 ngày 22 tháng 7 năm 2020 bị cáo Nguyễn Duy K điều khiển xe mô tô biển số 65U1 – 69xx lưu thông trên đường Nguyễn Văn Linh hướng quận B đi quận M, khi đến đoạn Km 14 + 272, đường Nguyễn Văn Linh thuộc khu vực B, phường P, quận M, bị cáo K quay mặt ra phía sau tìm, nói chuyện với em Nguyễn Hoàng K cùng lưu thông trên đường, không chú ý quan sát phía trước nên va chạm vào người anh Nguyễn Văn T đang đi bộ sát lề, ngược chiều phía trước, làm anh T té ngã xuống đường. Tai nạn xảy ra hậu quả là làm cho anh Nguyễn Văn T bị thương nặng được đưa đến bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ cấp cứu, đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 23/7/2020 thì anh Trinh tử vong tại bệnh viện.

[4] Bị cáo K có hành vi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông trên đường không chú ý quan sát phía trước vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại về tính mang người khác. Bản thân bị cáo chưa có giấy phép lái xe theo quy định và sau khi gây ra tai nại đã điều khiển xe bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Do đó, hành vi này của bị cáo đủ yếu tố cấu thành “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định điểm a, c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự. Do đó, việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[5] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Tính mạng, sức khỏe của con người vô cùng quý giá, không gì có thể bù đắp được. Vì vậy, Nhà nước có những qui định nghiêm ngặt để bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng sức khỏe con người đều phải bị pháp luật trừng trị. Bị cáo đã có hành vi xâm phạm đến tín mạng của công dân được pháp luật bảo vệ, gây tổn thất về tinh thần rất lớn cho gia đình của người bị hại và gây mất trật tự an toàn xã hội. Do đó, để có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo nhìn nhận được những sai phạm của bản thân, sống đặt mình trong khuôn khổ pháp luật.

[6] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có tác động liên đới cùng gia đình anh Nguyễn Văn Tvà chị Lương Thẳm thúy Hằng tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; đại diện bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nhân thân chưa tiền án, tiền sự; Đồng thời bị cáo khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phần nào còn hạn chế. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự là phù hợp nên chấp nhận. Tuy nhiên, do bị cáo có hai tình tiết định khung hình phạt nên không đủ điều kiện áp dụng điều 54 Bộ luật hình sự theo đề nghị của người bào chữa.

[7] Đối với Nguyễn Thanh Quế T ngồi phía sau xe của bị cáo K do xe không té ngã không bị thương tích, nên không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên không đặt ra xem xét.

[8] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo có tác động liên đới cùng gia đình anh T và chị H đã bồi thường cho gia đình bị hại có đại diện ủy quyền là anh Nguyễn Thành L nhận số tiền là 130.000.000 đồng (trong đó: gồm toàn bộ tiền chi phí khám chưa bệnh, ma chay hòm gương, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng nuôi con của anh T và các chi phí khác có liên quan). Hiện anh L không yêu cầu bồi thường thêm về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.

[9] Đối với 01 xe mô tô hiệu hiệu YAMAHA loại Sirius, loại xe nữ, BKS 65U1-69xx, màu sơn: Vàng-đen-xám, dung tích xi lanh: 110cm3, số máy:

5C63226359, số khung: C6309Y226362, xe đã qua sử dụng. Qua xác minh xe do ông Nguyễn Văn T (cha ruột của bị cáo K) là đứng tên chủ sở hữu, bị cáo lấy xe điều khiển và gây ra tai nạn ông T hoàn toàn không biết nên không có cơ sở để xử lý.

[10] Về về xử lý vật chứng: Theo đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa nêu trên là có cở sở, phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[11] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a, c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố : Nguyễn Duy K phạm Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Áp dụng: Điểm a, c khoản 2 Điều 260; khoản 1 Điều 101; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Nguyễn Duy K 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.

- Về trách nhiệm dân sự:

Ghi nhận việc gia đình của bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại có đại diện ủy quyền là anh Nguyễn Thành L nhận số tiền là 130.000.000 đồng (trong đó: gồm toàn bộ tiền chi phí khám chưa bệnh, ma chay hòm gương, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng nuôi con của anh T và các chi phí khác có liên quan). Anh L không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên không xem xét giải quyết.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Trả lại cho anh Nguyễn Văn T gồm: 01 xe mô tô hiệu hiệu YAMAHA loại Sirius, loại xe nữ, BKS 65U1-69xx, màu sơn: Vàng-đen-xám, dung tích xi lanh: 110cm3, số máy: 5C63226359, số khung: C6309Y226362, xe đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số: 008279 của xe mô tô BKS 65U1-69xx mang tên Nguyễn Văn T.

(Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận M quản lý) - Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 75/2020/HS-ST

Số hiệu:75/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về