Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 70/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 70/2020/HS-PT NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 07 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 08/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Trần R do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

*Bị cáo có kháng cáo:

Trần R, sinh ngày 10/11/1974 tại ĐN; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố T, thị trấn P, huyện P, tỉnh T; Nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: Lớp 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Trần H và bà Hoàng Thị N; vợ là Hồ Thị Mỹ L, có 03 con (lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 07/8/2019 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/3/2019, Trần R (có giấy phép lái xe hợp lệ) trực tiếp điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 75C-xxx.87 lưu thông trên Quốc lộ 1A hướng Huế - Quảng Trị. Khi đến Km 798+350 QL 1A, là ngã tư giao nhau giữa QL 1A với đường tỉnh lộ 9 thuộc địa phận thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền. Trước lúc cho xe rẻ trái, R quan sát thấy xe mô tô do anh Đặng Bá Th đang lưu thông theo hướng Quảng Trị- Huế, nhưng R vẫn điều khiển xe chuyển hướng. Do đó, khi đuôi xe ô tô tải của R đang ở trên đường dành cho xe cơ giới thì xe mô tô do anh Thiều đã đụng vào phía sau bên phải xe ô tô gây tai nạn Hậu quả, anh Nguyễn Bá Th bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Trung ương Huế, đến ngày 19/3/2019 thì chết.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 62-19/TT ngày 17/4/2019, Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Nguyên nhân chết của anh Đặng Bá Th là do đa chấn thương nặng toàn thân do tai nạn giao thông, loại trừ mọi nguyên nhân khác.

Tại Bản kết giám định số 02-19/ĐK 7502S ngày 13/3/2019, Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận đối với xe ô tô tải 75C-xxx.87: Các hệ thống phanh, hệ thống lái và hệ thống đèn tín hiệu đều đạt yêu cầu.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu hợp pháp, không ai có yêu cầu hay khiếu nại gì khác. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình phía bị hại đã thỏa thuận về bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần với tổng số tiền là 81.100.000 đồng, đã giao nhận đủ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 25/2019/HS-ST ngày 19/11/2019, Tòa án nhân dân thị huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Trần R 09 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 21/11/2019, bị cáo Trần R có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Kết quả xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Trần R đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra và tại phiên toà sơ thẩm. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng tai nạn xảy ra thì bị hại cũng có một phần lỗi, bản thân bị cáo đã ăn năn hối cải và đã bồi thường cho gia đình bị hại; phía đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia phiên tòa phúc thẩm có quan điểm:

Về hình thức, nội dung đơn kháng cáo đúng quy định, đúng chủ thể và trong thời hạn kháng cáo.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức hình phạt 09 tháng tù là phù hợp, đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt. Trong vụ án này, lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo, người bị hại không có lỗi. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đã có cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/3/2019, Trần R (có giấy phép lái xe hợp lệ) trực tiếp điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 75C- xxx.87 lưu thông trên Quốc lộ 1A hướng Huế - Quảng Trị. Khi đến Km 798+350 QL 1A, là ngã tư giao nhau giữa QL 1A với đường tỉnh lộ 9 thuộc địa phận thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền. Trước lúc cho xe rẻ trái, R quan sát thấy xe mô tô do anh Đặng Bá Th đang lưu thông theo hướng Quảng Trị- Huế đến, nhưng R vẫn điều khiển xe chuyển hướng. Do đó, khi đuôi xe ô tô tải của R đang ở trên đường dành cho xe cơ giới thì xe mô tô do anh Đặng Bá Th đã đụng vào phía sau bên phải xe ô tô gây tai nạn. Hậu quả, anh Nguyễn Bá Th bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Trung ương Huế, đến ngày 19/3/2019 thì chết.

Với hành vi trên, Tòa án nhân dân huyện Phong Điền đã kết án bị cáo Trần R về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Trần R, thấy rằng:

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định được điểm va chạm của hai phương tiện là mặt tiếp xúc của lốp xe mô tô 74E1-xxx.47 và mặt ngoài của lốp ngoài phía sau bên phải và phần vành xe của xe ô tô 75C-xxx.87 nằm trên đường của xe mô tô 74E1-xxx.47 Trên cơ sở kết quả thực nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện xác định nguyên nhân của vụ tai nạn trên lỗi do Trần R điều khiển phương tiện xe ôtô một cách chủ quan, chuyển hướng rẽ trái nhưng không nhường đường cho xe đi ngược chiều là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ.

Phía bị hại anh Đặng Bá Th khi điều khiển xe tham gia giao thông mà trong máu có nồng độ cồn đo được vượt quá 50mg/100ml (148,8384mg/100ml) dẫn đến không làm chủ được tốc độ, nên khi điều khiển xe đi qua đoạn đường có biển báo nguy hiểm đã không giảm tốc độ đến mức không nguy hiểm, va chạm vào phần sau đuôi xe phía bên phải của xe ô tô do Trần R điều khiển là vi phạm khoản 8 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ và khoản 1 Điều 5 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ Giao thông vận tải.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị hại điều khiển xe mô tô mặc dù có nồng độ cồn nhưng trước khi tai nạn xảy ra đã chạy hết phần đường giao nhau giữa Quốc lộ 1A và Tỉnh lộ 9 nên không có nghĩa vụ phải tuân thủ quy định “khi qua nơi giao nhau không có vòng xuyến...phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép...” là không phù hợp với hiện trường vụ án.

Thực tế, khi đi đến ngã tư đường có biển báo giao nhau với đường không ưu tiên, bị hại đã không giảm tốc độ, không làm chủ tốc độ nên đã để xe mô tô của mình đụng vào phía sau lốp ngoài bên phải phía sau xe tải gây ra tai nạn giao thông.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo đã ôm cua (cướp cua) không nhường đường cho xe mô tô đang chạy ngược chiều nên phải chịu hoàn toàn trách nhiệm là chưa chính xác. Lỗi tai nạn gây ra của vụ án này được xác định là lỗi hỗn hợp.

Xét bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc điều khiển xe tham gia giao thông phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy định của Luật giao thông đường bộ nhưng chỉ vì chủ quan khi chuyển hướng rẽ trái đã dẫn đến gây tai nạn làm chết 01 người. Do đó cần phải xử lý trách nhiệm hình sự để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, tai nạn giao thông xảy ra là ngoài ý muốn của bị cáo và cũng có một phần lỗi của bị hại; Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo đã tích cực cứu chữa nạn nhân, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và khắc phục toàn bộ hậu quả; bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền sự, tiền án, ngoài lần phạm tội này bị cáo không vi phạm chính sách pháp luật ở địa phương; có nơi cư trú cụ thể rõ ràng, là lao động chính trong gia đình và nuôi ba con đang còn nhỏ. Việc xử phạt bị cáo chủ yếu nhằm mục đích giúp bị cáo cải tạo, sửa chữa lỗi lầm để trở thành công dân có ích cho xã hội và không gây ảnh hưởng xấu cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm, nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyên địa phương quản lý, giáo dục cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo.

Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần R, áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, giữ nguyên mức án cấp sơ thẩm đã tuyên và cho bị cáo được hưởng án treo có thời gian thử thách.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần R, sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.

2. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Trần R 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm Giao bị cáo Trần R cho Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện P, tỉnh T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần R không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 70/2020/HS-PT

Số hiệu:70/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về