TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2023/TLST- HS ngày 30 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2023/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trịnh Hồng T, sinh năm 1980 Nơi cư trú: Phòng 2312, Tòa C, Chung cư I, số 203 N, phường T, quận Thanh Xuân, thành phố H Nội; tên gọi khác: Không; Giới tính N; Quốc tịch Việt N; Dân tộc Kinh; Tôn Giáo Không; Nghề nghiệp Lao động tự do; Trình độ học vấn 12/12; Đảng, đoàn thể Không; Tiền án, tiền sự Không có; Con ông Trịnh Đình L (đã chết); Con bà Phan Thị D, sinh năm 1949; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 03; Vợ Trần Thị Thêm, sinh năm 1983; Có 01 con sinh năm 2018;
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Đại diện theo ủy quyền của của người đại diện hợp pháp cho bị hại:
Anh Đào Quang H, sinh năm 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: N2, xã TN, huyện LN, tỉnh BG.
Người bị hại:
Bùi Thành N, sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: TDP CM, TT ĐN, huyện LN, tỉnh BG.
Anh Bùi Văn C, sinh năm 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: TDP CM, TT ĐN, huyện LN, tỉnh BG.
Anh Vũ Trí Đ, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn QB, CL, huyện LN, tỉnh BG.
Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn A, xã K, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Chị Dương Thị Đ, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn N2, xã TN, huyện LN, tỉnh BG.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trịnh Hồng T, sinh năm 1980 trú tại Chung cư I, số 203 N, phường T, quận Thanh Xuân, thành phố H Nội có giấy phép lái xe ô tô hạng B2. Khoảng 20 giờ ngày 09/01/2023, T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, loại Creta, biển kiểm soát (sau đây viết tắt là BKS) 30K-X đến thị trấn Đồi Ngô, huyện Lục N để giao Hng. Khoảng 21 giờ cùng ngày, sau khi giao Hng xong, T điều khiển xe ô tô đi theo đường tỉnh 293 hướng từ huyện Lục N đi thành phố Bắc Giang để về nhà. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe ô tô đi đến cầu vượt đường sắt thuộc khu vực Km 16 + 900 thuộc địa phận thôn Quyết Tâm, xã Yên Sơn, huyện Lục N, lúc này T điều khiển xe ô tô đi với tốc độ khoảng 70km/h, đi ở phần đường bên phải theo chiều đi thì T quan sát thấy phía trước ngược chiều cách xe ô tô T điều khiển khoảng 60m có xe contener đang đi đến bật đèn chiếu xa làm T bị chói mắt, hạn chế tầm nhìn phía trước, T vẫn điều khiển xe giữ nguyên tốc độ và đi ở phần đường bên phải theo chiều đi. Ngay sau khi xe contener vừa đi qua thì T nhìn thấy phía trước xe ô tô do T điều khiển có những người đang đứng tụ tập ở trên đường (gồm anh Đào Xuân N, sinh năm 2002 trú tại thôn Nghè 2, xã Tiên Nha, huyện Lục N; Bùi Thành N, sinh năm 1972 và Bùi Văn Ch, sinh năm 1997 cùng trú tại tổ dân phố Chằm Mới, thị trấn Đồi Ngô, huyện Lục N; Vũ Trí Đ, sinh năm 1970 trú tại thôn Quán Bông, xã Cẩm Lý, huyện Lục N; Nguyễn Văn C, sinh năm 1973 trú tại thôn A, xã K, huyện Lục N), do khoảng cách gần nên đầu xe ô tô BKS 30K-X do T điều khiển đã va chạm với anh Đào Xuân N, Bùi Thành N, Bùi Văn Ch, Vũ Trí Đ và Nguyễn Văn C làm những người này ngã văng ra đường. Hậu quả Anh Bùi Văn Ch, Nguyễn Văn C, Vũ Trí Đ bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang. Đến ngày 09/01/2023, anh Ch được ra viện; ngày 16/01/2023, anh C, anh Đ được ra viện. Anh Bùi Thành N, Đào Xuân N được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, H Nội, ngày 10/01/2023 anh Đào Xuân N bị tử vong, anh Bùi Thành N điều trị đến ngày 16/01/2023 thì được ra viện.
Cùng ngày, Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Lục N đã kiểm tra nồng độ cồn của Trịnh Hồng T, kết quả: 0,000mg/l.
* Khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường thuộc Km16 + 900 đường Tỉnh 293 thuộc địa phận thôn Quyết Tâm, xã Yên Sơn, huyện Lục N. Đoạn đường xảy ra tai nạn là đường thẳng phẳng, mặt đường trải nhựa áp phan rộng 11m, lề đường đất trái phải đều rộng là 4m, mặt đường có vạch kẻ đường nét đứt màu vàng ở giữa đường, có vạch kẻ đường nét liền màu trắng, cách mép đường phải là 1,9m, cách mép đường trái là 1,9m (hướng Lục N đi thành phố Bắc Giang). Xác định điểm mốc là cột Km16 + 900 nằm bên lề đường trái (hướng Lục N đi thành phố Bắc Giang) là điểm mốc chuẩn. Mép đường bên phải hướng Lục N đi thành phố Bắc Giang làm mép chuẩn.
Tại hiện trường phát hiện:
- Dấu vết màu nâu đỏ (nghi máu) ký hiệu (1) nằm trên mặt đường, dạng loang, KT (0,3 x 0,15)m; điểm gần nhất của dấu vết (1) cách mép đường phải là 1,4m; điểm gần nhất của vết (1) cách cột mốc chuẩn là 14,5m.
- Dấu vết màu nâu đỏ (nghi máu) ký hiệu (2) nằm trên mặt đường, dạng loang, KT (0,2 x 0,5)m; điểm gần nhất vết (2) cách mép đường phải là 2,6m;
điểm gần nhất của vết (2) cách cột mốc chuẩn là 10,1m; điểm gần nhất của vết (2) cách điểm gần nhất vết (1) là 5,7m.
- Dấu vết màu nâu đỏ ký hiệu (4) nằm trên mặt đường, có dạng loang và nhỏ giọt, KT (0,6 x 0,3)m; điểm gần nhất của vết (4) cách mép đường phải là 3,7m; điểm gần nhất của vết (4) cách cột mốc chuẩn là 7,5m; điểm gần nhất của vết (4) cách điểm gần nhất của vết (2) là 3,6m.
* Kết quả dựng lại hiện trường: Ngày 13/4/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N tiến hành dựng lại hiện trường vụ tai nạn giao thông nói trên. Kết quả dựng lại hiện trường phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường do Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Lục N lập ngày 09/01/2023. Quá trình dựng lại hiện trường, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã cho anh Bùi Thành N, Bùi Văn Ch, Vũ Trí Đ và Nguyễn Văn C chỉ lại vị trí những người này đứng trên đường ngay trước khi xảy ra va chạm, kết quả:
- Từ vị trí anh Đ đến vị trí dấu vết (1) là 2,3m, cách mép chuẩn là 2,16m.
- Từ vị trí anh Ch đến vị trí anh Đ là 50cm, cách mép chuẩn là 2,36m.
- Từ vị trí anh N đến vị trí anh Đ là 95cm, cách mép chuẩn là 1,6m - Từ vị trí anh C đến vị trí anh N là 70cm, cách mép chuẩn là 2,6m.
* Khám nghiệm tử thi anh Đào Xuân N:
- Khám ngoài:
+ Vùng đầu: Tóc nhuộm đỏ, cắt trung bình;
+ Mặt trước cơ thể có xăm hình hoa nhiều màu;
+ Lỗ tai trái có máu không đông chảy ra, hai lỗ mũi và lỗ tai phải khô, miệng khép kín, lưỡi trong cung răng;
+ Mặt ngoài cổ tay trái có diện xây sát da kích thước (6,5x1)cm;
+ Vùng T dương trái có diện sưng nề kích thước (11x10)cm, trên diện này có vết bầm tím sây xát da kích thước (5x4)cm;
+ Vùng chân trái có diện sây xát da kích thước (2,5x1,5)cm;
+ Phía sau tai trái có diện bầm tím kích thước (4,5x1,5)cm;
+ Vai trái và lưng có diện sây xát da kích thước (31x24)cm;
+ Khám kỹ các cơ quan khác không phát hiện tổn thương khác.
- Khám trong: Chọc hút khoang lồng ngực trái bằng bơm kim tiêm có máu không đông lẫn dịch bọt, không lồng ngực phải và ổ bụng không có máu.
- Qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu do Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N cung cấp, tại Bệnh án ngoại khoa của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đối với Đào Xuân N:
+ Bệnh nhân mê sâu, Glasgow: 03 điểm;
+ Đồng tử hai bên 03mm, phản xạ âm tính;
+ Cổ đặt Colier;
+ Mất phản xạ khí quản, thở máy, SP02 88%;
+ Kết quả chụp cắt lớp vi tính: Vỡ nhiều xương vùng đầu, tụ máu ngoài màng cứng, dưới màng cứng, dập não, xuất huyết dưới nhện hai bán cầu.
+ Chuẩn đoán: Chấn thương sọ não nặng: tụ máu ngoài màng cứng, dưới màng cứng, dập não, xuất huyết dưới nhện hai bán cầu.
* Kết quả khám nghiệm phương tiện:
- Khám xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, loại Creta BKS 30K-X Ba đờ sốc trước bị bật rời khỏi vị trí cố định, phần góc bên phải bị dập vỡ nhựa kích thước (20 x 26)cm, cách cạnh xe bên phải 26cm, phần góc bên trái bị dập vỡ nhựa kích thước (25 x 29)cm, cách cạnh xe bên trái 26cm; Ốp nhựa màu đen khu vực cụm đèn chiếu sáng và xi nhan phía trước bên phải bị dập vỡ, xô lệch khỏi vị trí cố định; nắp capo bị chùn cong, biến dạng kim loại, bong tróc sơn chiều hướng từ trước về sau, kích thước (95 x 156)cm; ốp nhựa đầu xe bên trái cạnh cụm đèn chiếu sáng trước và xi nhan trước bên trái bị dập vỡ, bật rời khỏi vị trí cố định; tại khu vực ba đờ sốc trước, ốp nhựa đầu xe, mặt trên lắp capo phát hiện các dấu vết in hằn, trượt xước sơn dạng các đường song song cụ thể như sau: (1) vết thứ nhất: tại vị trí góc bên phải ba đờ sốc trước, ốp nhựa đầu xe bên phải trên diện (50 x 22)cm, cách cạnh xe bên phải 21cm, điểm thấp nhất cách đất 40cm; (2) vết thứ hai: Ốp nhựa đầu xe và mặt trên nắp capo tại vị trí cách cạnh xe bên phải 56cm, cách đất 90cm, kích thước (21 x 9,5)cm; (3) vết thứ ba: mặt ngoài trước biển số trước, ốp nhựa đầu xe tại vị trí cách cạnh xe bên phải 75cm, cách đất 48cm, trên diện (45 x 20)cm; (4) vết thứ tư: tại mặt trước bên trái ba đờ sốc trước óp nhựa đầu xe bên trái, mặt trên bên trái nắp capo cách cạnh xe bên phải 107cm, cách đất 35cm, trên diện (68 x 29)cm; (5) vết thứ năm: tại góc bên trái ba đờ sốc trước ốp nhựa đầu xe bên trái, mặt trên bê trái nắp capo kích thước (140 x 40)cm; mặt trước, trên gương chiếu hậu bên trái có vết mài trượt xước sơn, kích thước (21 x 14)cm, cách đất 114cm.
Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã trưng cầu giám định xác định nguyên nhân chết của anh Đào Xuân N. Tại kết luận giám định pháp y tử thi số 672/KL-KTHS ngày 14/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:
- Nguyên nhân chết của Đào Xuân N do chấn thương sọ não: Tụ máu ngoài màng cứng, dưới màng cứng, dập não, xuất huyết dưới nhện hai bán cầu.
- Cơ chế hình thành dấu vết trên cơ thể Đào Xuân N:
+ Tổn thương sưng nề, bầm tím, sây sát da hình thành do vật tày có diện tiếp xúc và các hình dạng khác nhau theo nhiều chiều hướng tạo nên.
+ Tổn thương vỡ xương hộp sọ, tụ máu ngoài màng cứng, dưới màng cứng, dập não, xuất huyết dưới nhện hai bán cầu được hình thành do tác động của vật tày với lực mạnh tạo nên.
Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã trưng cầu giám định cơ chế hình thành dấu vết vụ tai nạn giao thông nêu trên, xác định vị trí va chạm của các phương tiện trên mặt đường, tốc độ của phương tiện. Tại Kết luận giám định số 583/KL-KTHS ngày 03/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:
(1) Dấu vết trượt xước sơn, nhựa, kim loại, in hằn các đường song song (dạng vân vải), hướng từ trước ra sau ở phần đầu xe ô tô BKS 30K – X gồm: Ba đờ sốc, nắp ca pô, biển số (ảnh 8, 9, 25 bản ảnh khám nghiệm phương tiện) được hình thành do va chạm với vật tày có bề mặt là vải sợi (như cơ thể người mặc quần áo) tạo nên.
Dấu vết vỡ nhựa, chùn cong kim loại, hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới ở phần đầu của xe ô tô BKS 30K - X gồm: cản trước, ba đờ sốc và nắp ca pô (ảnh 10, 11, 21, 22, 23, 24, 26 bản ảnh khám phương tiện) được hình thành do va chạm với vật tày gây nên.
(2) Không xác định được vị trí và chiều hướng va chạm giữa ô tô BKS 30K - X với người đi bộ, do sau khi xảy ra tai nạn xe ô tô BKS 30K- X di chuyển khỏi hiện trường.
(3) Không xác định được tốc độ của xe ô tô BKS 30K - X tại thời điểm xảy ra tai nạn qua dấu vết cơ học.
Quá trình điều tra, Trịnh Hồng T đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N 01 thẻ nhớ có ghi chữ “TREBIG 32GB” bên trong chứa file video do camera hành trình trên xe ô tô BKS 30K- X ghi lại nội dung sự việc khi xảy ra va chạm, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã sao lưu ra đĩa DVD-R gửi giám định. Tại bản kết luận giám định số 325/KL- KTHS ngày 28/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:
(1) Không phát hiện dấu vết cắt ghép nội dung hình ảnh trong 01 (một) file video có tên “VID-20220319-580.AVI”; dung lượng: 177MB; thời lượng 01 phút 00 giây được lưu giữ trong 01 (một) đĩa DVD-R gửi giám định.
(2) Quan sát thấy khi xảy ra va chạm giữa xe ô tô với các cơ thể người ở trên mặt đường là thuộc phần đường bên phải (có vạch kẻ đường nét đứt phân chia hai chiều).
(3) Trích xuất được 10 (mười) hình ảnh thể hiện diễn biến sự việc có trong các file video gửi giám định.
* Đối với những người bị hại khác - Đối với anh Nguyễn Văn C.
Tại bản kết luận giám định thương tích số 1328/23/KLTTCT-TTPY ngày 12/4/2023 của Trung tâm pháp y- Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận đối với thương tích của anh Nguyễn Văn C:
(1) Dấu hiệu chính qua giám định: Thương tích chạm thương tay phải không còn dấu vết: 0%; thương tích chạm thương tay trái không còn dấu vết:
0%; thương tích vết sẹo mổ mặt ngoài gối trái + gãy mâm cHy ngoài xương cHy và đầu trên xương mác trái + X- quang: vỡ mâm cHy ngoài xương cHy trái, đã kết hợp xương bằng vis xốp, đã can. Vỡ đầu trên xương mác trái: 20%.
(2) Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn C tại thời điểm giám định là: 20%.
(3) Kết luận khác: Cơ chết hình thành thương tích: các thương tích do va chạm với vật tày gây nên.
- Đối với anh Bùi Văn Ch Tại bản kết luận giám định thương tích số 1329/23/KLTTCT-TTPY ngày 21/4/2023 của Trung tâm pháp y- Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận đối với thương tích của anh Bùi Văn Ch.
(1) Dấu hiệu chính qua giám định: Thương tích vêt sẹo nông trái trái kích thước trung bình: 6%; thương tích vết sẹo nông kích thước trung bình trên cung mày trái: 6%; thương tích vết sẹo kích thước lớn má trái: 9%; thương tích vết sẹo kích thước nhỏ sống mũi: 3%; thương tích vết sẹo kích thước nhỏ môi trên bên phải: 3%; thương tích vết sẹo kích thước (0,8 x 0,5)cm mu bàn tay trái: 1%; thương tích vêt sẹo kích thước (0,6 x 0,5)cm mu bàn tay trái: 1%; thương tích vết sẹo kích thước (1,2 x 0,8)cm mu bàn tay trái: 2%; thương tích vêt sẹo kích thước (0,5 x 0,2)cm mu bàn tay trái: 1%; thương tích vêt sẹo kích thước (0,6 x 0,4)cm mu bàn tay trái: 1%; thương tích vêt sẹo kích thước (3 x 1)cm mu bàn tay phải: 2%; thương tích vêt sẹo kích thước (1 x 0,6)cm mu bàn tay phải: 2%; thương tích vêt sẹo kích thước (0,4 x 0,2)cm mu bàn tay phải: 1%; thương tích vêt sẹo kích thước (0,3 x 0,2)cm mu bàn tay phải:
1%; thương tích vêt sẹo kích thước (0,3 x 0,2)cm mu bàn tay phải: 1%; thương tích vêt sẹo kích thước (1 x 0,6)cm mu bàn tay phải: 2%; thương tích vêt sẹo kích thước (0,8 x 0,3)cm mu bàn tay phải: 1%; thương tích vết sẹo ngón II bàn tay phải kích thước (0,8 x 0,2)cm: 1%; thương tích vết sẹo ngón II bàn tay phải kích thước (1 x 0,4)cm: 1%; thương tích vết sẹo ngón III bàn tay phải kích thước (1,2 x 0,3)cm: 1%;
thương tích vết sẹo ngón IV bàn tay phải kích thước (0,4 x 0,2)cm: 1%; thương tích vết sẹo kích thước (5 x 3)cm gối phải: 2%; thương tích vết sẹo kích thước (1,5 x 1,5)cm gối phải: 2%; thương tích vết sẹo kích thước trung bình gối trái: 2%.
(2) Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Bùi Văn Ch tại thời điểm giám định là:
42% (3) Kết luận khác: Cơ chế hình thành thương tích: các thương tích do va chạm với vật tày gây nên.
- Đối với anh Bùi Thành N và Vũ Trí Đ Sau khi tai nạn xảy ra có bị thương đã được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện. Quá trình điều tra Trịnh Hồng T đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho anh N, anh Đ. Anh N và anh Đ đã nhận tiền bồi thường và có đơn xin từ chối giám định thương tích nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N không đặt ra xem xét xử lý trong vụ án này là có căn cứ.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, Trịnh Hồng T đã thỏa thuận và đã bồi thường cho gia đình anh Đào Xuân N số tiền 300.000.000 đồng; anh Vũ Trí Đ số tiền 50.000.000 đồng, anh Bùi Văn Ch và Bùi Thành N (là hai bố con) tổng số tiền 99.840.000 đồng; anh Nguyễn Văn C số tiền 5.000.000 đồng. Đại diện gia đình anh Đào Xuân N và các anh Bùi Văn Ch, Bùi Thành N, Vũ Trí Đ, Nguyễn Văn C đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bồi thường gì thêm, đồng thời có đơn xin miễn, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Trịnh Hồng T.
Quá trình điều tra, Trịnh Hồng T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị can Trịnh Hồng T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trịnh Hồng T có nhân thân tốt, quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quá trình điều tra đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; đại diện bị hại, bị hại có đơn xin miễn, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; mặt khác bị can có bố đẻ là Trịnh Đình Lương tham gia kháng chiến cứu nước, được NH nước tặng thưởng Huân, huy chương kháng chiến. Do vậy bị cáo Trịnh Hồng T được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Vật chứng thu giữ và việc xử lý: Xét thấy việc trả lại xe ô tô BKS 30K- X không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, ngày 28/4/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện Lục N đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu, trả lại 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, loại Creta, BKS 30K-X, 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Trịnh Hồng T, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô BKS 30K-X, 01 thẻ nhớ có ghi chữ “TREBIG 32GB” đã tạm giữ trước đó của T cho T.
Tại Cơ quan điều tra,Trịnh Hồng T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.
Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 29 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục N đã truy tố bị cáo Trịnh Hồng T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, c khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo T khai: Nội dung bản cáo trạng nêu hành vi của bị cáo hoàn toàn đúng.
Đại diện VKSND huyện Lục N, thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên và đề nghị Hội đồng xét xử. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 65 của BLHS xử phạt: Trịnh Hồng T từ 18 - 24 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 36 - 48 tháng, giao bị cáo cho UBND phường T, quận Thanh Xuân, TP H Nội giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo T đã bồi thường cho gia đình các bị hại xong. Gia đình các bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Bị cáo T trình bày bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai bị cáo đã tự nguyện dùng số tiền của bị cáo bồi thường cho gia đình các bị hại, đại diện gia đình bị hại và các bị hại đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát luận tội và đề xuất quan điểm giải quyết vụ án, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là phạm tội và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lục N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Căn cứ lời khai của bị cáo, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiện tử thi, vật chứng của vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 09/01/2023, Trịnh Hồng T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, loại Creta, BKS 30K-X đi theo đường tỉnh 293 hướng từ huyện Lục N đi thành phố Bắc Giang, khi đi đến cầu vượt đường sắt thuộc khu vực Km 16+900 thuộc địa phận thôn Quyết Tâm, xã Yên Sơn, huyện Lục N, do không chú ý quan sát, không tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường dẫn đến va chạm với các anh Đào Xuân N, Bùi Thành N, Bùi Văn Ch, Vũ Trí Đ và Nguyễn Văn C đang đứng tụ tập ở trên đường, vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ và khoản 1 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải. Hậu quả, anh Đào Xuân N tử vong do chấn thương sọ não; các anh Bùi Thành N, Bùi Văn Ch, Vũ Trí Đ và Nguyễn Văn C bị thương tích (trong đó: Bùi Văn Ch thương tích 42%, Nguyễn Văn C thương tích 20%; đối với Bùi Thành N và Vũ Trí Đ từ chối giám định thương tích).
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lục N đã truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội và phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 65 của BLHS xử phạt: Trịnh Hồng T từ 18 - 24 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 36 - 48 tháng, giao bị cáo cho UBND phường T, Quận Thanh Xuân, TP H Nội giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[4] Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng của người bị hại, gây mất mát đau thương cho những người thân của họ, gây tâm lý hoang mang cho những người tham gia giao thông. Do vậy, cần xử phạt bị cáo hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo phạm tội nghiêm trọng nhưng do lỗi vô ý bị cáo T điều khiển xe ô tô gây tai nạn nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã tự nguyện nộp bồi thường cho gia đình anh N số tiền 300.000.000đ, bồi thường cho anh Vũ Trí Đ 50.000.000đ, bồi thường cho ông Bùi Văn Ch và anh Bùi Thành N 99.840.000đ, bồi thường cho anh Nguyễn Văn C số tiền 5.000.000đ khắc phục hậu quả. Đại diện gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm và có đơn miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, sau khi gây tai nạn bị cáo đến cơ quan công an đầu thú nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Từ những căn cứ nêu trên xét thấy bị cáo phạm tội do lỗi vô ý bị cáo có nhân thân tốt có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo phạm tội lần đầu bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Từ những căn cứ nêu trên HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, các bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự, chỉ cần giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục là đủ, phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và chính sách xử lý của pháp luật hình sự NH nước ta.
[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 đến 05 năm. Xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường xong cho các bị hại, gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên HĐXX không đề cập xử lý.
[8] Về vật chứng của vụ án: Đã xử lý xong.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo, đại diện bị hại, các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a, c, khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của BLHS năm 2015.
1. Xử phạt: Bị cáo Trịnh Hồng T 24 tháng tù về tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 48 kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, giao bị cáo cho UBND Phường T, quận Thanh Xuân, TP H Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng điều 231, điều 234 BLTTHS.
điều 21, điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trịnh Hồng T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 65/2023/HS-ST
Số hiệu: | 65/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về