Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 65/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 65/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 45/2023/TLST-HS ngày 14/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2023/QĐXXST-HS ngày 15/8/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2023/QĐST-HS ngày 29/8/2023 và Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số 02/TB-TA ngày 18/9/2023 đối với.

Bị cáo Nguyễn Văn H, sinh năm 1984.

HKTT: Khu phố T, phường Thanh Khương, thị xã T, tỉnh B.

Quốc tịch Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn. Vợ Nguyễn Thị T, sinh năm 1986 (đã ly hôn). Con có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 2001 (đã chết)

Quê quán: Thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, thị xã T, tỉnh B.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm M T1, sinh năm 1980. (là bố đẻ chị T – đề nghị vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, thị xã T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1984 trú tại thôn T, xã Thanh Khương, huyện T, tỉnh B (nay là khu phố T, phường Thanh Khương, thị xã T, tỉnh B) là người có giấy phép lái xe mô tô. Buổi sáng ngày 13/11/2022, H ăn cỗ và có uống rượu tại nhà em gái là chị Nguyễn Thị Nết sau đó về nhà ngủ. Đến buổi tối cùng ngày, H một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 11B1-xxxxx đi từ nhà xuống khu vực xã Đình Tổ, huyện T, tỉnh B để chơi. Khi đi đến khu vực cây xăng xã Đình Tổ thì H không đi nữa mà vòng xe quay lại để đi về nhà. Cùng thời điểm này, chị Phạm Thị T, sinh năm 2001 trú tại thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện T, tỉnh B sau khi chơi ở nhà bạn ở xã Ngũ Thái, huyện T, tỉnh B thì điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode, BKS 99G1-xxxxx chở Nguyễn Thị Tú A, sinh năm 2001 ở cùng thôn và nhóm bạn của mình cùng đi trên đường liên xã Đại Đồng Thành đi xã Thanh Khương để về nhà của mình ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ. Nhóm của chị T cùng ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ gồm: Nguyễn Văn H, sinh năm 1999 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, BKS 29B1-xxxxx chở Nguyễn Thị T, sinh năm 2000 đi đầu tiên; Nguyễn Thị M, sinh năm 2001 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, BKS 99F1-xxxxx chở Nguyễn Thị N, sinh năm 2001 đi phía sau xe mô tô của H, sau đó đến xe của T. Các xe mô tô trên đều đi bên phải theo H di chuyển của mình, đi đúng phần đường, làn đường. Lúc này khoảng 20 giờ 30 phút khi cả nhóm đi đến khu vực đường liên thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, anh H điều khiển xe mô tô đi đầu quan sát thấy phía trước có một xe mô tô do Nguyễn Văn H điều khiển đi ngược chiều với tốc độ nhanh, đi lấn sang làn đường của anh H và lao về phía xe của anh H thì anh H đánh lái sang bên phải và tránh được. Tiếp đó, xe mô tô này lao thẳng vào xe mô tô do chị M điều khiển, chị M kịp thời đánh lái sang bên phải và tránh được nhưng bị mất lái đổ ra đường, trượt về phía trước. Chị M và chị N ngồi phía sau ngã ra đường bị thương nhẹ. Lúc này, xe mô tô do chị T điều khiển đi sau cùng do không tránh được nên bị xe mô tô do H điều khiển đâm trực diện vào làm cả hai xe bị đổ tại chỗ, xe mô tô của H bị rời bánh phía trước.

Hậu quả: Chị T bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh B, sau đó tử vong; chị Tú A ngồi phía sau bị thương nhẹ. Nguyễn Văn H bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đến ngày 16/11/2022 thì ra viện.

Ngay sau khi nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện T (nay là Công an thị xã T), tỉnh B đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, tử thi, khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, đồng thời tiến hành các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ, kết quả như sau:

Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường liên xã Đại Đồng Thành đi xã Thanh Khương thuộc địa phận thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện T, tỉnh B. Mặt đường trải nhựa bằng phẳng, lòng đường rộng 7.0m có vạch kẻ nét đứt chia đường thành hai chiều xe chạy riêng biệt. H Bắc đi xã Đại Đồng Thành; H Nam đi Thanh Khương; H Đông và Tây tiếp giáp mương nước và cánh đồng thôn Đại Trạch. Lấy mép đường phía Đông làm chuẩn; Cột mốc ký hiệu “M” là điểm mốc, nằm ở phía đông nam của dấu vết máu (1) và đến tâm (1) là 3,1m, nằm tại mép đường phía đông.

Vết máu (1): Diện (1,4x0,7)m, dạng máu đông; tâm vết máu cách mép đường phía Đông là 2,1m. Xe mô tô biển số 99G1-xxxxx (2): Loại xe SH Mode, đầu xe H bắc, đuôi xe H nam, đổ nghiêng bên phải và nằm về H bắc (1). Các trục trước và trục sau đến mép đường chuẩn lần lượt là 2,7m và 2,5m. Trục sau của xe đến tâm (1) là 70cm. Vết máu (3): Diện (35x50)cm, dạng máu đông; tâm vết máu cách mép đường phía Đông và cách tâm (2) lần lượt là 3,3m và 75cm; nằm về phía bắc (2). Diện gãy, vỡ và bánh xe (4): Diện (1,6x0,85)m, là tổng hợp các mảnh gãy vỡ của phương tiện và bánh xe phía trước của xe mô tô biển số 11B1-xxxxx đã bị rời ra khỏi xe; tâm vết này cách mép đường phía Đông là 3,4m. Vết cày xước mặt đường (5): Dạng dấu vết tạo thành vệt, dài 1,2m; nằm ở phía dưới bánh xe phía trước của xe mô tô 11B1-xxxxx đã bị rời ra. Điểm đầu và cuối vết cày cách mép đường chuẩn là 3,5m và 3,9m. Xe mô tô biển số 11B1-xxxxx (6): Loại xe Honda Wave, đầu xe H đông bắc, đuôi xe H tây nam và ở phía tây nam của (5); xe đã bị rời bánh trước và được dựng đứng bằng bánh sau và hai càng phía trước của xe. Đèn hậu phía sau của xe sáng, quanh khu vực xe dưới mặt đường có các chất lỏng (nghi là xăng, dầu của xe chảy ra). Các trục sau và giữa đến mép đường chuẩn lần lượt là 5,4m và 5,0m. Trục sau của xe đến tâm (4) là 1,0m. Xe mô tô biển số 99F1-xxxxx (7): Loại xe Honda Lead, đầu xe H bắc, đuôi xe H nam và ở phía bắc của (5), xe đổ nghiêng bên trái. Các trục sau và trước đến mép đường chuẩn lần lượt là 1,35m và 1,45m. Trục sau của xe đến trục giữa (6) là 6,4m. Vết cày xước mặt đường (8): Dạng dấu vết không liên tục, dài 7,4m, chỗ rộng nhất 37cm và là vết cày của xe mô tô (7); nằm về phía bắc của (7). Điểm đầu và cuối vết cày cách mép đường chuẩn là 2,05m và 1,7m.

Kết quả khám nghiệm tử thi nạn nhân:

Nạn nhân được gia đình và chính quyền địa phương xác nhận là chị Phạm Thị T, sinh năm 2001 trú tại thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện T, tỉnh B.

Khám ngoài: Đầu quấn băng y tế màu trắng, mặc ngoài áo vàng có kẻ caro màu nâu; vùng cổ tay áo và ống tay áo có bám dính chất màu nâu đỏ; chiều dài tử thi 1,50m; thể trạng trung bình, xác mềm. Vùng gốc mũi đến vùng đầu ngoài mắt phải có vết rách da nằm ngang (6x1)cm, bờ mép gọn, thành vết thương bầm dập. Hai mắt nhắm, bầm tụ máu quanh mắt phải. Tụ máu phần mềm quanh nhãn cầu phải và tụt sâu vào trong. Vùng sống mũi đến phần môi trên và vùng má phải xây sát rách da (6,5x6)cm, sờ nắn thấy lạo sạo xương. Vùng xương mũi gò má phải, xương hàm trên, dưới bên phải rách và bầm tụ máu môi. Hai lỗ tai, mũi, miệng có máu chảy ra khi thay đổi tư thế. Sờ nắn thấy lạo sạo xương vùng đốt sống cổ. Toàn bộ vùng ngực có nhiều vết rách da nông. Khung chậu vững không phát hiện tổn thương. Phần cánh tay, cẳng tay trái, phải; đùi trái phải có vết xây sát diện khác nhau.

Mổ tử thi: Giải phẫu theo vết rách da vùng gốc mũi và đuôi mắt bên phải: Bầm dập tụ máu dưới da vùng trán và vùng gò má mũi bên phải diện (15x10)cm; vỡ lún phức tạp xương vùng trán bên phải và vùng ổ mắt bên phải diện (7x1,5)cm. Vết vỡ xương tương ứng vết rách da bên ngoài. Rách màng cứng, dập nát tổ chức não bên phải tương ứng diện vỡ xương; vỡ phức tạp xương hàm mặt bên phải.

Kết quả khám nghiệm phương tiện:

Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 11B1-xxxxx: Vỡ toàn bộ đèn pha, đèn báo rẽ trước bên phải. Ốc chân gương bên phải xước, mài mòn diện (1,0x1,0)cm. Vỡ mất mảnh toàn bộ cánh yếm bên trái. Gãy rời toàn bộ bánh phía trước và hai giảm sóc ra khỏi cổ xe. Bánh trước xe có dấu vết xoay lệch sang trái so với hai giảm sóc. Mặt lăn và một phần mặt thành lốp bên phải có vết in trượt (30x5,0)cm. Mặt bên phải thành lốp có vết trượt bám chất màu đỏ (15x5,0)cm; mép vành biến dạng lõm vào trong, mặt ngoài có vết xước (1,0x0,8)cm. Vỡ vỏ máy bên trái; khuyết nắp máy bên trái bộ phận tản nhiệt. Xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode biển kiểm soát 99G1- xxxxx: Vỡ mảnh toàn bộ nắp ốp phía trước và cánh yếm hai bên. Vỡ mảnh hai đèn báo rẽ trước; mặt ngoài bên trái chắn bùn trước có diện trượt xước (32x13)cm. Mặt lăn và một phần thành lốp bên trái có vết trượt (30x3,0)cm; mặt bên phải mép vành bánh trước có vết xước (6x2)cm; mặt bên trái đĩa phanh bánh trước có vết lõm xước 9cm về phía ngược chiều quay tiến của bánh xe. Mặt ngoài cụm phanh màu đỏ phía sau giảm sóc bên trái phía trước có vết trượt (9x4,5)cm; bánh trước đẩy dồn về sau ép gần sát vào khung xe và lệch sang phải so với chắn bùn. Mặt ngoài bàn để chân bên phải xước. Mặt ngoài ốp nhựa sườn phài xước; mặt ngoài bên phải tay nắm sau xước; mặt ngoài ốp cách nhiệt ống xả xước.

Trưng cầu giám định, kết quả giám định:

Ngày 15/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T ra Quyết định số 236 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B giám định điểm va chạm và cơ chế hình thành dấu vết ở điểm va chạm giữa xe mô tô biển số 99G1-xxxxx với xe mô tô biển số 11B1-xxxxx.

Tại bản Kết luận giám định số 186/KL-KTHS ngày 05/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận:

“1. Dấu vết in trượt tại mặt lăn và mặt thành lốp bên trái bánh trước xe mô tô biển số 99G1-xxxxx có chiều từ mặt lăn vào vành, từ trái sang phải bánh xe, hình thành do va chạm với mặt lăn và mặt thành lốp bên phải bánh trước của xe 11B1- xxxxx tạo nên là phù hợp. Dấu vết va chạm trên xe mô tô 11B1-xxxxx tại vị trí này có chiều từ mặt lăn lốp vào vành, từ phải sang trái bánh xe.

2. Dấu vết trượt, mất sơn tại mặt trước ngoài cụm phanh bánh trước trên xe mô tô 99G1-xxxxx có chiều từ trái sang phải, hình thành do va chạm với mặt thành lốp và mép vành bên phải bánh trước xe mô tô biển số 11B1-xxxxx tạo nên là phù hợp khi bánh xe của xe mô tô 11B1-xxxxx đã xoay sang trái. Dấu vết va chạm trên xe mô tô 11B1-xxxxx tại vị trí này có chiều H từ phải sang trái bánh xe”.

Ngày 13/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T ra Quyết định số 232 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B giám định nguyên nhân chết của chị Phạm Thị T. Tại bản Kết luận giám định pháp y tử thi số: 1888/KL-KTHS ngày 25/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:“Nguyên nhân chết của Phạm Thị T là do chấn thương hàm mặt, chấn thương sọ não”.

Kết quả chứng thương của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức về xét nghiệm máu cơ bản, Ethanol trong máu của Nguyễn Văn H ngày 13/11/2022 là: 57.006mmol/l. Căn cứ Quyết định số 993 ngày 23/3/2010 của Bộ y tế về đo nồng độ cồn (Ethanol) trong máu áp dụng trong các bệnh viện, xác định: Nồng độ cồn trong máu của Nguyễn Văn H là 262,7mg/100ml.

Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode biển kiểm soát 99G1-xxxxx:

Quá trình điều tra xác định là xe của chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1984 trú tại khu Hòa Đình, phường Võ Cường, thành phố B, tỉnh B. Năm 2021 chị H1 đã bán xe cho chị Phạm Thị T. Vì vậy ngày 12/6/2023, Cơ quan CSĐT Công an thị xã T đã trả lại chiếc xe trên cho ông Phạm M T1 (bố đẻ chị T). Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 11B1- xxxxx: Quá trình điều tra xác định là xe của chị Hoàng Thị H2, sinh năm 1991 trú tại xóm Phia Đỏng, xã N Động, huyện Quảng Uyên, tỉnh C. Chị H2 bán xe cho Nguyễn Văn H. Vì vậy ngày 12/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã trả lại chiếc xe trên cho H. Đối với chiếc xe mô tô nhãn nhiệu Honda Lead biển kiểm soát 99F1-xxxxx: Quá trình điều tra xác định là xe của chị Nguyễn Thị M. Vì vậy, ngày 01/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại chiếc xe trên cho chị M.

Quá trình điều tra xác định: Gia đình bị cáo Nguyễn Văn H đã bồi thường cho gia đình chị Phạm Thị T số tiền 190.000.000 triệu đồng. Ông Phạm M T1 đại diện gia đình đã nhận tiền và không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn H phải bồi thường gì thêm, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Đối với chị Nguyễn Thị Tú A bị thương tích nhẹ từ chối giám định thương tích và không đề nghị gì về việc bồi thường.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKSTT ngày 13/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố và thừa nhận bản Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày bản luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Đề nghị áp dụng dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 48 Bộ Luật hình sự. Điều 106; Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xử phạt Nguyễn Văn H từ 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 60 tháng. Về trách nhiệm dân sự do hai bên đã tự thoả thuận xong và không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Trả lại bị cáo H một giấy phép lái xe hạng A1 số AC 74xxxx do Sở giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên cấp ngày 22/6/2007.

Bị cáo H nhận tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện cải tạo tại địa phương vì hiện tại thời điểm này bị cáo sức khỏe cũng kém, bị cáo bị hỏng một bên mắt phải do hậu quả của vụ tại nạn nổ nhãn cầu mắt phải.

Với nội dung trên:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về việc thực hiện trình tự tố tụng đối với vụ án: Quá trình thực hiện thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện T (nay là thị xã T), Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe tai nạn cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ để kết luận: Nguyễn Văn H có giấy phép lái xe hạng A1 số V502044 do Sở giao thông vận tải tỉnh C cấp ngày 28/4/2005. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/11/2022, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 11B1- xxxxx trong tình trạng có uống rượu với nồng độ cồn Ethanol trong máu là 262,7mg/100ml đi từ xã Đình Tổ để về nhà ở xã Thanh Khương, huyện T, tỉnh B. Khi đi đến đoạn đường liên xã Đại Đồng Thành đi Thanh Khương thuộc địa phận thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ. Do H điều khiển xe không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ, đi không đúng phần đường, làn đường, lấn sang phần đường bên trái theo chiều đi của mình nên đã đâm vào xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode biển kiểm soát 99G1-xxxxx do chị Phạm Thị T điều khiển chở chị Nguyễn Thị Tú A đi theo H ngược chiều. Hậu quả chị T bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh B, sau đó tử vong do chấn thương hàm mặt, chấn thương sọ não. H2 vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ Luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là chính xác, đúng pháp luật.

[3]. Xét về tích chất, nguyên nhân, mức độ phạm tội của bị cáo thì thấy: H2 vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự giao thông đường bộ, xâm phạm đến trật tự công cộng và là mối lo ngại cho mọi người khi tham gia giao thông trên đường bộ do vậy cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng riêng và phòng ngừa chung. Về nguyên nhân phạm tội bị cáo vì chủ quan, lại lái xe trong tình trạng có nồng độ cồn vượt quá mức cho phép nên khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đã không quan sát dẫn đến gây tai nạn cho chị T.

[4]. Về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thừa nhận việc khi tham gia giao thông bị cáo đã không đi đúng tốc độ, không đúng làn đường, không quan sát dẫn đến đâm xe vào chị T gây lên cái chết của chị T. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo đã có tác động gia đình thăm hỏi bị hại cũng như thực hiện việc bồi thường, khắc phục hậu quả cùng với gia đình người bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Phía đại diện của bị hại cũng có đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo cũng có người thân có thành tích trong kháng chiến đã được Nhà nước ghi nhận nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự.

Bị cáo phạm tội do lỗi vô ý dẫn đến hậu quả chết người. Tuy bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 260 của Bộ Luật hình sự nhưng bị cáo cũng bị thương tích, hiện nay mắt phải của bị cáo cũng đã bị tổn thương mất khả năng thị giác. Sau khi phạm tội bị cáo cũng đã cùng với gia đình tích cực khắc phục hậu quả đối với người bị hại. Phía đại diện bị hại cũng đã có đơn đề nghị giả nhẹ hình phạt cho bị cáo nên thấy rằng không cần thiết phải phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo cũng là bài học thích đáng cho bị cáo, đủ tính răn đe đối với bị cáo trong việc chấp hành pháp luật sau này. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về phần trách nhiệm bồi thường dân sự: Sau khi vụ việc xảy ra bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền là 190.000.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả. Hai bên đã thống nhất xong việc bồi thường và không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án.

[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô hiệu HondaSH Mode BKS 99G1-xxxxx xác định là của chị T nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Phạm M T1. Chiếc xe mô tô Honda Wave BKS 11B1 -xxxxx xác định của bị cáo H nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo H. Chiếc xe mô tô Honda Lead BKS 99F1- xxxxx xác định của chị Nguyễn Thị M nên Cơ quan điều tra đã trả lại các chủ sở hữu số tài sản trên là phù hợp. Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng A1 số AC 74xxxx do Sở giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên cấp ngày 22/6/2007.

[7]. Liên quan đến vụ án có chị Nguyễn Thị Tú A là người người ngồi sau xe do chị T điều khiển, chị Tú A cũng bị thương tích nhẹ và từ chối việc giám định, chị Tú A cũng không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử cũng không xem xét giải quyết là phù hợp.

[8]. Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ Luật hình sự. Điều 106; Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tuyên xử.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo H cho UBND phường Thanh Khương, thị xã T, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ Luật hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết do các bên đã tự thỏa thuận xong và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về vật chứng của vụ án: Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 số AC 74xxxx do Sở giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên cấp ngày 22/6/2007 (lưu trong hồ sơ vụ án).

4. Về án phí: Buộc bị cáo H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện bị hại là ông T1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 65/2023/HS-ST

Số hiệu:65/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/11/2022, H điều khiển xe mô tô trong tình trạng say rượu với nồng độ cồn 262,7mg/100ml huyết tương. H đã đâm trực diện vào xe mô tô do chị Phạm Thị T điều khiển, khiến chị T tử vong do chấn thương sọ não.

Tòa án nhận định hành vi của H đã đủ yếu tố cấu thành tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ". H được hưởng những tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả cho bị hại. Đại diện bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho H.

Tòa án quyết định tuyên phạt H 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng. Hai bên đã tự thỏa thuận về bồi thường nên Tòa không xem xét giải quyết. Tòa trả lại giấy phép lái xe cho H.