Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 60/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 60/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn B, tên gọi khác: không; sinh ngày 13/11/1973, tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: khu Y, phường Y, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị C (đã chết); có vợ là Lương Thị H và có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Trịnh Công Đ, sinh năm: 1993; địa chỉ: Thôn T, xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. (đã chết).

* Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1992; địa chỉ: Tổ 2, khu B, phường P, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Phùng Thị Q, sinh năm: 1963; địa chỉ: khu T, phường H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Chị Trần Thị H, sinh năm: 1975; địa chỉ: Thôn T, xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

* Những người làm chứng:

- Chị Vũ Thị T, sinh năm: 1979; địa chỉ: khu T, phường Y, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Chị Vũ Thị Q, sinh nằm: 1982; địa chỉ: khu T, phường H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn B có giấy phép lái xe hạng E. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/10/2021 Nguyễn Văn B điều khiển xe ô tô BKS 17C - 141.73 (B lái thuê cho bà Phùng Thị Q) trên ca bin có chở theo chị Vũ Thị T và chị Vũ Thị Q xuất phát từ nhà bà Q di chuyển trên Quốc lộ 18A hướng Đông Triều đi thành phố Uông Bí. Khi B điều khiển xe đến đoạn Km 74 + 300 Quốc lộ 18A thuộc khu D, phường P, thành phố Uông Bí, lúc này B cho xe đi ở làn đường giáp vạch sơn màu vàng liền nét giữa tâm đường của phần đường bên phải hướng Đông Triều - Hạ Long. Khi gần đến vị trí giao nhau với đường nhánh phía bên phải, B bật tín hiệu đèn báo rẽ phải, quan sát qua gương chiếu hậu bên phải thấy phía sau cùng chiều bên phải có một số xe mô tô đang đi đến, nghĩ có thể cho xe chuyển hướng rẽ phải an toàn nên Bẩy điều khiển xe rẽ phải cho xe vào đường nhánh. Khi đầu xe bên phải vừa rẽ vào đến mép đường QL 18 tiếp giáp với đường liên khu thì xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển kiểm soát 14H1 - 5798 do anh Trịnh Công Đ điều khiển đi từ phía sau cùng chiều lên va chạm phần tay lái bên trái xe mô tô vào góc phía trước bên phải đầu xe ô tô B điều khiển làm xe mô tô của anh Đ đổ trượt trên mặt đường nhánh về hướng Hạ Long. Nghe thấy tiếng va chạm B phanh cho xe dừng lại rồi xuống xe thì thấy anh Đ bị thương. B cùng mọi người đưa anh Đ đi cấp cứu đến ngày 23/11/2021 anh Đ tử vong.

Biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện: (hướng thị xã Đông Triều đi thành phố Hạ Long) nơi xảy ra tai nạn là khu vực ngã ba giao nhau giữa đường QL 18 và đường liên khu đi tổ 1, khu D, phường P, thành phố Uông Bí. Đường QL 18 phẳng tầm nhìn không bị che khuất, đường trải áp phan rộng 15,8m. Đường liên khu D có chiều hướng gần vuông góc với QL 18 mặt đường trải nhựa áp phan rộng 7m, vỉa hè được ốp đá. 01 xe ô tô tải BKS 17C - 14173 đỗ ở khu vực ngã ba giao cắt giữa Quốc lộ 18 và đường liên khu cùng chiều với 02 vết phanh. Đầu xe nằm hướng liên khu, đuôi xe hướng QL 18. Tâm trục lốp sau ngoài cùng bên phải và tâm trục lốp trước bên trái cách mép đường bên phải lần lượt là 0,3m và 1,6m; điểm đầu vết phanh lết lốp bên phải nằm trên QL 18A cách mép đường bên phải 1,3m; vết phanh dài 0,9m, rộng 0,4m. Xe mô tô BKS 14H1 - 5798 nằm đổ nghiêng sang phải sát bờ ốp vỉa hè bên phải đường liên khu. Đầu xe hướng QL 18A đuôi xe hướng phía đường liên khu. Tâm trục lốp trước và tâm trục lốp sau cách mép đường bên phải lần lượt là 1m và 2,1m. Điểm đầu đám trượt xước do xe mô tô tạo ra trên mặt đường nhánh cách mép đường bên phải 0,7m.

Biên bản khám nghiệm các phương tiện liên quan thể hiện: Phần cao su của tay lái bên trái xe mô tô BKS 14H1 - 5798 va chạm vào mặt ngoài góc dưới phía trước cánh cửa bên phải xe ô tô BKS 17C - 141.73 tạo thành vết tì trượt cao su màu đen hướng từ sau về trước. Phần cánh yếm phía trước bên trái xe mô tô va chạm vào góc bên phải ba đờ sốc trước xe ô tô đẩy góc ba đờ sốc cong hướng từ sau ra trước.

Giấy chứng nhận thương tích của bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển đối với anh Trịnh Công Đ thể hiện: Gãy xương sườn 4 bên trái di lệch, gãy cũ xương sườn 9 bên trái đang can; Chảy máu dưới màng cứng bán cầu não hai bên, bên phải dày 6mm, bên trái dày 13mm, có lọt khí nội sọ rải rác, tạo hiệu ứng khối lên tổ chức não lân cận; Phù não nhẹ, lan tỏa bán cầu não hai bên, hệ thống não thất bẹp, dịch đồng nhất; Đường giữa lệch nhẹ sang phải, hình vỡ xương sọ thái dương hai bên và trán phải; Vỡ thành ngoài xoang hàm phải, thành ngoài hốc mắt phải. Tụ dịch máu trong xoang hàm phải, xoang sàng, xoang bướm, xoang trán hai bên. Định lượng Ethanol: 26,05mmol/l.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 232 ngày 24/11/2021 của trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ninh kết luận: Nguyên nhân chết của anh Trịnh Công Đ: Suy đa tạng do chấn thương sọ não, tụ máu ngoài màng cứng và dưới màng cứng, phù não, chèn ép não, chết não + đa chấn thương phối hợp, hậu phẫu ngày thứ 29. Định lượng Ethanol: 26,05mmol/l.

Cáo trạng số: 59/CT- VKSUB ngày 27/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Đại diện hợp pháp của bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ phù hợp nội dung vụ án.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt chính: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Văn B mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo B và bà Phùng Thị Q đã tự nguyện bồi thường cho gia đình anh Trịnh Công Đ số tiền 110.000.000 đồng. Phần hư hỏng của hai phương tiện các bên tự khắc phục, không yêu cầu đề nghị bồi thường.

- Về vật chứng của vụ án: Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 17C-141.73 cùng các giấy tờ có liên quan, quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của bà Phùng Thị Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà Q; Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14H1- 5798, quá trình điều tra xác định là xe của chị Trịnh Thị H, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị H.

Bị cáo không tranh luận với quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông do Phòng cảnh sát giao thông đường bộ - Công an tỉnh Quảng Ninh lập hồi 16 giờ 45 phút ngày 25/10/2021 (kèm theo sơ đồ, bản ảnh khám nghiệm hiện trường); biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông; biên bản khám nghiệm tử thi; bản giám định pháp y và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 25/10/2021, tại km74+300 Quốc lộ 18 thuộc khu D, phường P, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn B (có giấy phép lái xe ô tô theo quy định) điều khiển xe ô tô tải biển số đăng ký 17C-141.73 do chuyển hướng không đảm bảo an toàn đã va chạm với xe mô tô biển số đăng ký 14H1 - 5798 do anh Trịnh Công Đ điều khiển đang đi phía sau cùng chiều. Hậu quả: Anh Đ bị tử vong. Hành vi điều khiển xe trên của Nguyễn Văn B đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ quy định: “Trong khi chuyển hướng, người lái xe phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác”.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện lỗi vô ý, hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, làm tổn hại đến tính mạng của người khác. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

Về hình phạt:

Về hình phạt chính:

* Tình tiết tăng nặng: Không có.

* Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo và bà Phùng Thị Q đã bồi thường thiệt hại cho gia đình anh Trịnh Công Đ số tiền 110.000.000 đồng, đại diện gia đình bị hại đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, sự việc dẫn đến tai nạn cũng có một phần lỗi do bị hại đã sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Như vậy xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo là người có nhân thân tốt. Do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà áp dụng quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách là phù hợp với tính chất mức độ phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, cũng không có công việc và thu nhập ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo và bà Phùng Thị Q đã tự nguyện bồi thường cho gia đình anh Trịnh Công Đ số tiền 110.000.000 đồng, đại diện gia đình bị hại đã nhận tiền bồi thường và không có ý kiến gì về phần trách nhiệm dân sự nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[4] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 17C-141.73 cùng các giấy tờ có liên quan, quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của bà Phùng Thị Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà Q; Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14H1- 5798, quá trình điều tra xác định là xe của chị Trịnh Thị H, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị H. Bà Q và chị H không có ý kiến gì về phần tài sản nên HĐXX không đề cập xử lý.

Đối với Giấy phép lái xe ô tô hạng E mang tên Nguyễn Văn B, xét thấy không cần thiết phải tạm giữ nên trả lại cho bị cáo.

[5] Về biện pháp ngăn chặn: Bị cáo được hưởng án treo nên căn cứ khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” và “Tạm hoãn xuất cảnh” đối với bị cáo.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/6/2022.

Giao bị cáo Nguyễn Văn B cho Ủy ban nhân dân phường Y, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh là nơi bị cáo cư trú, để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn B 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng E mang tên Nguyễn Văn B.

3. Về biện pháp ngăn chặn: Căn cứ khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 33 ngày 07/6/2022 và “Tạm hoãn xuất cảnh” theo Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 39 ngày 07/6/2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn B.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 22/6/2022. Vắng mặt đại diện hợp pháp của bị hai, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 60/2022/HS-ST

Số hiệu:60/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về