Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 50/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 02/06/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 02 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2023/HSST ngày 31 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân D; sinh ngày 13 tháng 10 năm 1981, tại tỉnh Tr; nơi cư trú: thôn A, xã H, huyện G, tỉnh Quảng Trị; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lái xe; Đoàn thể: Quần chúng; Con ông: Nguyễn D, sinh năm 1956; Con bà: Bùi Thị T, sinh năm 1956; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, Dương là con thứ hai trong gia đình; Vợ: Trần Thị X, sinh năm 1989; Con: có 03 người, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 11/01/2023 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

* Bị hại:

- Công ty TNHH MTV H có địa chỉ tại: xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An; do ông Vũ Văn Th – Chủ tịch HĐQT - Đại diện theo pháp luật; Người đại diện theo ủy quyền của ông Vũ Văn Th - ông Hồ Xuân S, sinh năm 1988 – Quyền giám đốc Công ty; Người đại diện tham gia tố tụng theo ủy quyền của ông Hồ Xuân S - ông Nguyễn Đình H, sinh năm 1991; nơi cư trú: xã N, huyện L, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt;

- Công ty CP Tập đoàn S Chi nhánh tại Q; địa chỉ: thôn V, xã L, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; Do ông Nguyễn Phong C – Giám đốc chi nhánh đại diện theo pháp luật; Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Phong C - Ông Lê Tiến Th, sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn V, xã L, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Công ty TNHH MTV Q, địa chỉ: Khu phố 3, phường 5, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; do Bà Dương Thị Ngọc A - Giám đốc đại diện theo pháp luật; Người đại diện theo ủy quyền của bà Dương Thị Ngọc A - ông Dương Phước B, sinh năm 1975; nơi cư trú: Khu phố 3, phường 5, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Có mặt.

* Người làm chứng:

- Ông Võ Văn T, sinh năm 1986; địa chỉ cư trú: Xóm 3, xã X, huyện N, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt;

- Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1996; địa chỉ cư trú: thôn Đ, xã P, huyện Gi, tỉnh Quảng Trị; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 15/11/2022, Nguyễn Xuân D, sinh năm 1981, trú tại thôn A, xã H, huyện Gi, tỉnh Quảng Trị (có giấy phép lái xe hợp lệ) điều khiển xe ô tô khách BKS 74F - X chở khách di chuyển trên đường Quốc lộ 1A theo hướng Nam - Bắc, đi từ thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đến thành phố Hà Nội. Đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn Km 644 đường Quốc lộ 1A đoạn thuộc địa phận xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, D đang điều khiển phương tiện di chuyển ở làn dành cho xe cơ giới phía trong thì phát hiện phía trước cùng chiều có xe ô tô tải BKS 37C - X do Võ Văn T, sinh năm 1986, trú tại xã X, huyện N, tỉnh Nghệ An điều khiển đang đi lùi từ đường Quốc lộ 1A vào khu vực nhà xưởng Tôn Hoa S ở bên phải đường, D nghĩ chủ quan là sẽ tránh được xe ô tô tải nên chỉ giảm tốc độ bằng cách nhả chân ga ra chứ không phanh xe lại, tuy nhiên khi xe của D còn cách xe ô tô tải khoảng 10m thì D mới xác định không thể tránh được nên đánh lái sang phải qua làn đường dành cho xe cơ giới bên ngoài rồi lao qua làn đường dành cho xe thô sơ, người đi bộ để tránh xe ô tô tải nhưng do khoảng cách quá gần, phần trước bên trái đầu xe, thành xe bên trái ô tô khách BKS 74F - X va chạm với phần sau thùng hàng xe ô tô tải BKS 37C - X, sau đó xe ô tô khách BKS 74F - X tiếp tục lao về phía trước và xảy ra va chạm với xe ô tô tải BKS 61C - X đang đỗ ở trong khu vực sân của nhà xưởng Tôn Hoa S trong tình huống: phần trước bên phải đầu xe ô tô khách BKS 74F - X va chạm với phần trước bên trái đầu xe của xe ô tô tải BKS 61C - X theo hướng từ trái sang phải so với trục dọc của xe ô tô tải BKS 61C - X, khiến cho xe ô tô tải BKS 61C - X xê dịch khỏi vị trí ban đầu, va chạm vào phần cánh cửa cuốn, cột trụ phía trước thứ hai bên trái của nhà xưởng, bảng quảng cáo và toàn bộ phần kệ và gạch ngói trưng bày trong khu vực nhà xưởng Tôn Hoa S làm móp méo, hư hỏng, gãy vỡ phải thay thế.

Hậu quả: 03 (ba) phương tiện bị hư hỏng (xe ô tô tải BKS 37C - X; xe ô tô tải BKS 61C - X; xe ô tô khách 74F - X), nhà xương Tôn Hoa S bị hư hại một phần, không có thiệt hại về người.

Kết quả khám nghiệm hiện trường theo hướng Nam - Bắc thấy:

Hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra trên tuyến đường Quốc lộ 1A đoạn thuộc địa phận xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trên chiều đường hướng Nam - Bắc. Đây là đoạn đường được trải nhựa bằng phẳng, được chia thành 02 chiều đường ngăn cách bằng dải phân cách cứng; ở mỗi chiều đường được phân thành 03 làn đường, trong đó gồm 02 làn đường dành cho xe cơ giới được phân cách bằng vạch kẻ sơn màu trắng, đứt quãng, mỗi làn rộng 3,5m;

01 làn đường dành cho xe thô sơ và người đi bộ được ngăn cách với hai làn đường dành cho xe cơ giới bằng vạch kẻ sơn màu trắng liền nét, làn rộng 02m. Phía bên phải chiều đường là khu vực sân nhà xưởng Tôn Hoa S, kích thước (17 x 20)m và nhà xưởng Tôn Hoa S.

Lấy mốc lý trình Km 644 làm điểm mốc, lấy vạch sơn trắng liền mạch phân chia giữa làn đường dành cho xe cơ giới với làn đường dành cho xe thô sơ của chiều đường xảy ra tai nạn làm đường chuẩn, tiến hành khám nghiệm hiện trường theo hướng Nam - Bắc, vào ngày 15/11/2022, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Quảng Bình đã ghi nhận các dấu vết như sau:

Vị trí 1: Xe ô tô BKS 37C - X đang nằm chéo, chiếm một phần đường xe chạy, không bị lật, đầu xe quay về hướng Tây Bắc, đuôi xe quay hướng Đông Nam. Vị trí (1) nằm về phía Nam so với điểm mốc, tâm trục bánh xe phía trước bên phải cách điểm mốc là 35m. Tâm trục bánh xe phía trước bên phải xe ô tô nằm về phía Tây của đường chuẩn, cách đường chuẩn là 3,8m; tâm trục bánh xe phía sau bên phải và bên trái của xe ô tô nằm về phía Đông của đường chuẩn, lần lượt cách đường chuẩn là 2,5m và 0,9m.

Vị trí 2: Đám mảnh vỡ nhựa màu vàng, các mảnh kính vụn, các mảnh kim loại nằm rải rác trên phần lề đất thuộc khu vực sân nhà xưởng Tôn Hoa S, kích thước (6,4 x 3)m. Vị trí (2) nằm về phía Đông của đường chuẩn và vị trí (1), tâm vị trí (2) lần lượt cách đường chuẩn và tâm trục sau bánh xe phía bên phải của vị trí (1) là 4,52m và 1,2m.

Vị trí 3: Xe ô tô khách BKS 74F - X đang nằm trên phần sân của nhà xưởng Tôn Hoa S, không bị lật, đầu xe quay về hướng Đông Bắc, đuôi xe quay về hướng Tây Nam. Vị trí (3) nằm về phía Đông của đường chuẩn, tâm trục bánh xe phía trước bên trái và tâm trục bánh xe phía sau bên trái lần lượt cách đường chuẩn là 10,2m và 7,1m. Phần đuôi xe nằm ngay trên vị trí (2).

Vị trí 4: Vết cà trượt nằm trên phần sân của xưởng Tôn Hoa S, chiều hướng Tây Nam - Đông Bắc, dài 8,7m, rộng 0,13m, điểm cuối vết cà trượt nằm ngay dưới bánh xe phía trước bên trái xe ô tô BKS 61C - X Vị trí 5: Đảm mảnh vỡ gồm mảnh kính vụn, các mảnh ngói màu đỏ nằm rải rác trên phần sân của xưởng Tôn Hoa S, có kích thước (5,4 x 2,4)m. Vị trí (5) nằm về phía Đông của vị trí (3), tâm vị trí (5) cách bánh xe phía sau bên phải của vị trí (3) là 4,2m.

Vị trí 6: Xe ô tô tải BKS 61C - X bị xê dịch khỏi vị trí ban đầu, đang nằm ở trên phần sân của xưởng Tôn Hoa S, đầu xe quay về hướng Bắc, đuôi xe quay về hướng Nam. Vị trí (6) nằm về phía Đông của vị trí (3), tâm trục bánh xe phía trước bên trái vị trí (6) cách tâm trục bánh xe phía trước bên phải vị trí (3) là 1,1m, tâm trục bánh xe phía sau bên trái vị trí (6) cách tâm trục bánh xe phía sau bên phải của vị trí (3) là 5,2m.

Kết quả xác định hiện trường và xác định thêm các dấu vết ngày 24/11/2022 như sau:

Vị trí 1: Cột trụ phía trước, thứ 2 từ trái qua phải của nhà xưởng Tôn Hoa S được làm bằng kim loại, dài 7m, bị cong vênh, móp méo, xô lệch theo chiều hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải; điểm thấp nhất cách mặt đất 1,25m. Cột trụ nằm về phía Đông của đường chuẩn, cách đường chuẩn 17m.

Vị trí 2: Cửa cuốn thứ nhất bên trái cửa hàng, được làm bằng kim loại, kích thước (6 x4)m, bị xô lệch, móp méo theo chiều hướng từ trước ra sau, không nâng hạ được.

Vị trí 3: Bảng quảng cáo và đám mảnh vỡ gạch, ngói nằm trên khu vực sân của nhà xưởng Tôn Hoa S, đã gãy đổ về hướng Bắc, kích thước (4 x 2,5)m, bị hư hỏng hoàn toàn. (BL 34 - 42).

* Kết quả khám nghiệm phương tiện thấy:

+ Xe ô tô khách BKS 74F - X:

Kính chắn gió phía trước có 02 (hai) dấu vết lún, nứt vỡ:

Dấu vết 1: Kích thước (95 x 50)cm chiều hướng từ trước ra sau, ở góc dưới bên phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 137cm.

Dấu vết 2: Kích thước (137 x 53)cm, chiều hướng từ trước ra sau, ở phần bên trái, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 135cm.

Phần vỏ ở mặt ngoài cột A bên trái có dấu vết gãy vỡ, trượt xước mất sơn màu vàng kích thước (94 x 17)cm, chiều hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 116cm.

Cột A bên trái có dấu vết cong gập, trượt xước kích thước (60 x 12)cm chiều hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 90cm. Cụm đèn pha, đèn xi nhan trước bên trái có dấu vết gãy vỡ kích thước (45 x 50)cm, chiều hướng từ phải trái sang, từ trước ra sau.

Phần bên trái cản trước có dấu vết gãy vỡ, mặt ngoài có dấu vết trượt xước mất sơn màu vàng, bám dính chất màu đen (dạng sơn) kích thước (46 x 19)cm, chiều hướng từ trước ra sau, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 38cm.

Kính chắn gió bên trái (tương ứng với vị trí ghế lái) vỡ hoàn toàn. Cửa khoang chứa bình ắc quy bên trái thân xe bụng khỏi vị trí.

Cửa khoang chứa bình nhiên liệu bên trái thân xe có dấu vết cong gập kích thước (100 x 30)cm, chiều hướng từ trước ra sau, từ phải sang trái, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 22cm.

Kính chắn gió thứ 1, 2 bên trái khoang hành khách (tính từ trước ra sau) vỡ hoàn toàn kích thước (143 x 380)cm.

Mặt ngoài vỏ thân xe bên trái có dấu vết trượt xước ngắt quãng mất sơn màu vàng, trắng kích thước (1075 x 58)cm, chiều hướng từ trước ra sau, điểm đầu cách thành xe phía trước 132cm, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 80cm.

Cửa khoang chứa lọc gió phía sau bên trái bung, gãy phần kim loại kích thước (83 x 57)cm, điểm gần nhất cách thành xe phía sau 58cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 57cm.

Mặt ngoài phần vỏ bên phải đầu xe có dấu vết trượt xước mất sơn màu vàng, bám dính chất màu xanh, đỏ, trắng (dạng sơn) kích thước (66 x 32)cm, chiều hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 108cm.

Cụm đèn pha, đèn xi nhan trước bên phải và phần bên phải bung khỏi vị trí kích thước (86 x 78)cm, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 33cm.

Cột A bên phải có dấu vết cong gập, móp lún, trượt xước kích thước (60 x 9)cm chiều hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải, vị trí cong gặp nhiều nhất cao cách mặt đất 77cm.

Cửa lên xuống phía trước bên phải ca bin gãy bung khỏi vị trí, cong vênh biến dạng, phần dưới cạnh trước có dấu vết trượt xước mất sơn màu vàng kích thước (65 x 10)cm.

+ Xe ô tô tải BKS 37C - X.

Phần sau thùng hàng móp méo, biến dạng hướng từ sau tới trước, từ trái sang phải, nắp thùng hàng phía sau bị bung khỏi vị trí.

Đầu bên trái thanh ngang phía sau sàn thùng hàng bị bung nhả mối hàn ghép, cong lệch từ trái sang phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 138cm.

Phần bên trái tấm chắn, ốp phía sau sàn thùng hàng bung khỏi vị trí, gãy cong từ trái sang phải, mặt ngoài có dấu vết trượt xước kích thước (250 x 13)cm chiều hướng từ trái sang phải.

Phần sau 02 thanh xắc xi dọc cong lệch hướng từ trái sang phải.

Thanh ngang khung xe phía sau có dấu vết cong, lệch từ trái sang phải, phần bên phải có dấu vết gãy đứt kim loại, trượt xước bám dính chất màu vàng (dạng sơn) kích thước (88 x 39)cm, chiều hướng từ sau tới trước, từ trái sang phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 90cm.

Cản sau có dấu vết cong, lệch từ trái sang phải, mặt ngoài có dấu vết trượt xước mất sơn màu đen, bám dính chất màu vàng (dạng sơn) kích thước (167 x 11)cm, chiều hướng từ trái sang phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 51cm.

+ Xe ô tô tải BKS 61C - X.

Cửa bên trái ca bin có dấu vết cong vênh, biến dạng hướng từ trái sang phải, mặt ngoài có dấu vết trượt xước bám dính sơn màu vàng kích thước (160 x 45)cm, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 75cm.

Góc trước bên trái ca bin có dấu vết cong vênh, biến dạng kích thước (76 x 65)cm chiều hướng từ trái sang phải, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 103cm; bề mặt có dấu vết trượt xước mất sơn màu xanh, đỏ, trắng, bám dính chất màu vàng (dạng sơn) kích thước (30 x 28)cm, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 122cm.

Phần bên trái cản trước có dấu vết cong vênh, biến dạng hướng từ trái sang phải, bề mặt có dấu vết hằn, trượt xước bám dính sơn màu vàng kích thước (34 x 22)cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 73cm.

Cửa lên xuống bên phải có dấu vết móp lún, mặt ngoài có dấu vết trượt xước bám dính chất màu xanh kích thước (72 x 36)cm, chiều hướng từ phải sang trái, điểm thấp nhất cao cách mặt đất 83cm.

Tại Bản Kết luận giám định số 1288/KL-KTHS ngày 09/12/2022 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình kết luận:

- Các dấu vết gãy vỡ, cong gập, trượt xước ở cột A bên trái; dấu vết gãy vỡ, trượt xước mất sơn màu vàng, bám dính chất màu đen (dạng sơn) ở phần bên trái cản trước; dấu vết trượt xước ngắt quãng mất sơn màu vàng, trắng ở vỏ thân xe bên trái xe ô tô khách BKS 74F - X có đặc điểm phù hợp với dấu vết gãy cong, trượt xước ở mặt ngoài tấm chắn ốp phía sau sàn thùng hàng; dấu vết cong lệch, gãy đứt kim loại, trượt xước bám dính chất màu vàng ở thanh ngang khung xe phía sau và dấu vết trượt xước mất sơn màu đen, bám dính chất màu vàng (dạng sơn) ở cản sau xe ô tô tải BKS 37C - X. Đặc điểm các dấu vết trên phù hợp tình huống phần trước bên trái đầu xe, thành xe bên trái ô tô khách BKS 74F - X va chạm với phần sau thùng hàng xe ô tô tải BKS 37C - X theo hướng từ sau tới trước, từ trái sang phải so với trục dọc của xe ô tô tải BKS 37C - X.

- Các dấu vết trượt xước mất sơn màu vàng, bám dính chất màu xanh, đỏ, trắng (dạng sơn) ở mặt ngoài phần vỏ bên phải đầu xe; dấu vết cong gập, móp lún, trượt xước ở cột A bên phải; dấu vết cong vênh, biến dạng, trượt xước mất sơn màu vàng ở phần dưới cạnh trước cửa lên xuống phía trước bên phải ca bin xe ô tô khách BKS 74F - X có đặc điểm phù hợp với các dấu vết cong vênh, biến dạng, trượt xước bám dính sơn màu vàng (dạng sơn) ở cửa bên trái ca bin; dấu vết biến dạng, trượt xước mất sơn màu xanh, đỏ, trắng, bám dính chất màu vàng (dạng sơn) ở góc trước bên trái ca bin và dấu vết biến dạng, hằn, trượt xước bám dính chất màu vàng (dạng sơn) ở phần bên trái cản trước xe ô tô tải BKS 61C - X. Đặc điểm các dấu vết trên phù hợp tình huống phần trước bên phải đầu xe ô tô khách BKS 74F – X va chạm với phần trước bên trái đầu xe của xe ô tô tỉa BKS 61C – X theo hướng từ trái sang phải so với trục dọc của xe ô tô tải BKS 61C – X.

Kết luận định giá tài sản số 58/KL-HĐĐGTS của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự của UBND huyện Bố Trạch:

- Thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô tải BKS 37C - X: 53.838.000 đồng (Năm mươi ba triệu tám trăm ba mươi tám nghìn đồng).

- Thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô tải BKS 61C - X: 125.875.000 đồng (Một trăm hai mươi lăm triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

- Thiệt hại về tài sản của nhà xưởng Tôn Hoa S: 42.240.000 đồng (Bốn mươi hai triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng).

- Thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô khách 74F - X: 326.200.000 đồng (Ba trăm hai mươi sáu triệu hai trăm nghìn đồng).

Vật chứng vụ án: Qúa trình điều tra, cơ quan CSĐT Công an huyện Bố Trạch đã thu giữ:

- 01 (một) xe ô tô BKS 74F-X (bị hư hỏng) cùng Giấy chứng nhận đăng ký, Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực;

- 01 (một) xe ô tô BKS 37C - X (bị hư hỏng) cùng Giấy biên nhận thế chấp tài sản, Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực.

- 01 (một) Giấy phép lái xe số 450088000X, hạng E mang tên Nguyễn Xuân D, có hiệu lực đến hết ngày 08/3/2027.

- 01 (một) Giấy phép lái xe số 740104000X, hạng C mang tên Võ Văn T, có hiệu lực đến hết ngày 03/8/2023.

- 01 (một) xe ô tô BKS 61C - X (bị hư hỏng) cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.

Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, ngày 11/01/2023 Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu số 03 trả lại: 01 (một) xe ô tô BKS 74F- X (bị hư hỏng) cùng Giấy chứng nhận đăng ký, Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực cho chủ sở hữu là Công ty TNHH MTV Q ở KP3, P5, TP Đ, tỉnh Quảng Trị; 01 (một) xe ô tô BKS 37C - X (bị hư hỏng) cùng Giấy biên nhận thế chấp tài sản, Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực cho chủ sơ hữu Công ty TNHH H ở Xã Q, TX H, tỉnh Nghệ An; 01 (một) xe ô tô BKS 61C - X (bị hư hỏng) cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ cho chủ sở hữu của Công ty CP S - chi nhánh tỉnh Quảng Bình ở thôn V, xã L, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; 01 (một) Giấy phép lái xe số 740104000X, hạng C mang tên Võ Văn T, có hiệu lực đến hết ngày 03/8/2023 cho Võ Văn T.

Trách nhiệm dân sự: Bị can Nguyễn Xuân D và Công ty TNHH MTV Q (chủ xe ô tô BKS 74F-X) đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho Công ty TNHH H (chủ xe ô tô BKS 37C - X) số tiền 36.000.000đồng (Ba mươi sáu triệu đồng chẵn); bồi thường cho Công ty CP Tập đoàn S chi nhánh tỉnh Quảng Bình (chủ xe ô tô BKS 61C - X và chủ nhà xưởng Tôn Hoa S) số tiền 168.000.000đồng (một trăm sáu mươi tám triệu đồng chẵn), trong đó chi phí sửa xe là 126.000.000đồng (một trăm hai mươi sáu triệu đồng chẵn), chi phía sữa chữa các hư hại tại nhà xưởng 42.000.000đồng (Bốn mươi hai triệu đồng chẵn). Các bên đã nhận đủ tiền, cam đoan không khiếu nại, khiếu kiện và có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Tại Cáo trạng số 35/CT-VKSBT ngày 30/3/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã truy tố các bị cáo Nguyễn Xuân D về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm d khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Xuân D cả về tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định: Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân D từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Miễn các hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: không xem xét; Về xử lý vật chứng vụ án: Trả lại 01 giấy phép lái xe ô tô hạng E mang tên Nguyễn Xuân D cho bị cáo Nguyễn Xuân D (Hiện có tại Hồ sơ vụ án); Về án phí và quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tuyên quyền kháng cáo cho Bị cáo, đại diện bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định.

Tại phiên tòa, Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhất trí với nội dung bản Cáo trạng và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Lời nói sau cùng của bị cáo thể hiện bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện ở nhà làm ăn, phụ giúp gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bố Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, vắng mặt những người làm chứng và đại diện Công ty TNHH MTV H. Đại diện Công ty CP tập đoàn S Chi nhánh Quảng Bình có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét sự vắng mặt của người đại diện của bị hại tại phiên tòa hôm nay không cản trở việc xét xử, không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án; căn cứ đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục xét xử vụ án.

[3] Về tội danh: Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập hợp pháp có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ 15 phút ngày 15/11/2022, Nguyễn Xuân D điều khiển xe ô tô khách BKS 74F - X theo hướng Nam-Bắc, khi đến đoạn Km 644 Quốc lộ 1A thuộc địa phận xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, do chủ quan, không làm chủ được tốc độ để giảm tốc khi xuất hiện chướng ngại vật ở phía trước nên đã va chạm với xe ô tô tải BKS 37C - X đang lùi rồi va chạm với xe ô tô tải BKS 61C-X đang đỗ ở trong khu vực sân của nhà xưởng Tôn Hoa S làm xe ô tô tải BKS 61C - X va chạm vào nhà xưởng Tôn Hoa S. Kết luận định giá tài sản số 58/KL-HĐĐGTS của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự của UBND huyện Bố Trạch xác định tổng giá trị thiệt hại về tài sản do bị cáo gây ra là 548.153.000 (Năm trăm bốn mươi tám triệu một trăm năm mươi ba nghìn) đồng. Tuy nhiên, thiệt hại về tài sản 326.200.000 đồng của xe ô tô khách 74F - X thuộc quyền sở hữu của Công ty TNHH MTV Q, là phương tiện do bị cáo điều khiển trên cơ sở hợp đồng thuê được ký kết với Công ty nên thiệt hại này không được xác định là tang số tội phạm. Do đó, Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch chỉ xác định giá trị thiệt hại 221.953.000 đồng (hai trăm hai mươi mốt triệu chín trăm năm mươi ba đồng) để truy cứu trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 12 Luật giao thông đường bộ (được quy định chi tiết tại khoản 1 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT- BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông), hậu quả gây thiệt hại về tài sản 221.953.000 đồng nên đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết nào.

[6] Về hình phạt: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; vi phạm các quy định của pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ, gây tai nạn giao thông với hậu quả thiệt hại về tài sản 221.953.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại lớn về tài sản cho các bị hại. Tuy nhiên, xét thấy sau khi gây tai nạn bị cáo đã tích cực phối hợp với Người sử dụng lao động bồi thường thiệt hại cho các bị hại; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và lần đầu phạm tội với lỗi vô ý; bị cáo là lao động chính trong gia đình, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; tại phiên tòa bị cáo thể hiện đã nhận thức đầy đủ vi phạm của mình, tỏ ra ăn năn hối cải và cam đoan sẽ không tái phạm. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần tuyên một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, giao bị cáo cho UBND xã H, huyện Gi, tỉnh Quảng Trị là nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục cũng đủ sức răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét hình thức và mức độ lỗi của bị cáo trong vụ tai nạn thấy rằng, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, sau khi gây tai nạn bị cáo đã phối hợp với Người sử dụng lao động bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra cho các bị hại. Hơn nữa, bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang nuôi 03 con nhỏ và không có nghề nghiệp nào khác ngoài nghề lái xe. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi gây tai nạn, bị cáo đã phối hợp với Người sử dụng lao động tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại. Đại diện các bị hại đã nhận đủ tiền và không có yêu cầu, đề nghị gì khác về trách nhiệm dân sự trong vụ tai nạn. Đối với thiệt hại của xe ô tô khách 74F - X thuộc quyền sở hữu của Công ty TNHH MTV Q, sau vụ tai nạn đại diện Công ty TNHH MTV Q không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp có yêu cầu, thì Công ty TNHH MTV Q có quyền khởi kiện một vụ kiện dân sự khác để được Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về xử lý vật chứng: Xét quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã xác định được chủ sở hữu và đã trả lại các phương tiện, tài liệu liên quan đến phương tiện cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Đối với 01 giấy phép lái xe số 450088000X, hạng E mang tên Nguyễn Xuân D, có hiệu lực đến hết ngày 08/3/2027 được chuyển theo hồ sơ vụ án, được cơ quan có thẩm quyền cấp theo đúng quy định của pháp luật nên cần tuyên trả lại bị cáo khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân D phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Về điều luật áp dụng: Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 260; Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Áp dụng Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân D 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (02/6/2023).

Giao bị cáo Nguyễn Xuân D cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện Gi, tỉnh Quảng Trị phối hợp với gia đình bị cáo giám sát, giáo dục.

Trong thời gian thử thách của án treo; bị cáo Nguyễn Xuân D phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự. Nếu bị cáo Nguyễn Xuân D vắng mặt tại nơi cư trú hoặc thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách của án treo nếu bị cáo Nguyễn Xuân D vi phạm nghĩa vụ của người được hưởng án treo thì bị xử lý theo quy định tại Điều 93 Luật Thi hành án hình sự.

4. Về hình phạt bồ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Xuân D.

5. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân D 01 giấy phép lái xe hạng E số 450088000X, mang tên Nguyễn Xuân D do Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Trị cấp ngày 08/3/2022. (Giấy phép lái xe hiện có tại hồ sơ vụ án).

6. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách nhà nước.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về