Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 43/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 29 tháng 10 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Trọng S, sinh ngày: 01/01/1980, tại xã K, huyện T, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm L, xã K, huyện T, tỉnh Nghê An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Trọng N (đã chết) và bà Phan Thị T, sinh năm 1945; có vợ Nguyễn Thị H và 02 con, đứa lớn 15 tuổi, nhỏ 7 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/7/2021 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Đăng T; sinh năm 2003 (Đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Đăng P, sinh năm 1971; nghề nghiệp: Cán bộ UBND xã và bà Mai Thị P, sinh năm 1972; nghề nghiệp: Lao động tự do; đều có địa chỉ: Xóm 6, xã H, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Bà Mai Thị P ủy quyền cho ông Nguyễn Đăng P tham gia tố tụng (Văn bản ủy quyền ngày 30/9/2021); vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Phan Đình V; sinh năm 2001; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Xóm 7, xã H, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

Công ty TNHH Xuất nhập khẩu HM; trụ sở: Xóm 9, đường M, xã N, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, do ông Bùi Quý M - Chức vụ: Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật, ủy quyền cho anh Nguyễn Phước H; sinh năm 1981; nghề nghiệp: Kinh doanh; địa chỉ: Số nhà 15, ngõ 45 đường Xuân T, Phường Q, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An tham gia tố tụng (Văn bản ủy quyền ngày 31/5/2021); có mặt.

Ông Nguyễn Đăng P, sinh năm 1971; nghề nghiệp: Cán bộ UBND xã H; địa chỉ: Xóm 6, xã H, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 30/5/2021, Trần Trọng S, sinh năm 1980, trú tại xã K, huyện T, tỉnh Nghệ An điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 37C-336.81 kéo theo sơ mi rơ móc BKS 37R-023.17 (có giấy phép lái xe hợp lệ theo quy định) đi trên đường Hồ Chí Minh theo hướng huyện Hương Khê đi huyện Vũ Quang. Khi đi đến Km 813+800 đường Hồ Chí Minh thuộc xóm 9, xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê, phát hiện phía trước cùng chiều có một người phụ nữ điều khiển phương tiện giao thông rẽ trái nên bị cáo đạp phanh, đánh lái để xử lý nhưng sau đó người phụ nữ trên lại đi sang bên phải, nên xe ô tô bị cáo điều khiển đi sang phần đường bên trái đâm vào xe mô tô BKS 38P1-344.59 do anh Nguyễn Đăng T, sinh ngày 10/10/2003, trú tại xóm 6, xã H, huyện Hương Khê điều khiển chở danh Phan Anh V, sinh năm 2001 là người cùng xã chạy ngược chiều. Hậu quả anh Nguyễn Đăng T tử vong tại chỗ; anh Phan Đình V bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Hà Tĩnh, sau đó chuyển đến Bệnh viện đa khoa hữu nghị Nghệ An điều trại đến ngày 23/6/2021 thì ổn định ra viện; xe ô tô và xe mô tô bị hư hỏng một phần.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường vụ tai nạn nằm trên đường Hồ Chí Minh thuộc xóm 9, xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê, đường cong sang trái (hướng xã Phúc Đồng đi xã Điền Mỹ), mặt đường rải thảm nhựa rộng 7m, có vạch kẻ tâm đường sơn màu vàng nét đứt, có 02 lề cỏ, mỗi lề rộng 0,5m, tiếp giáp là hộ lan bằng kim loại cao 0,8m, phía Bắc giáp đồng ruộng, phía Nam giáp khu dân cư, phía Đông là hướng đi ngã ba Phúc Đồng, phía Tây là hướng đi xã Điền Mỹ. Chọn mép trong vạch kẻ đường trên trái hướng xã Phúc Đồng đi xã Điền Mỹ làm mép chuẩn, cột điện số 10 T1/T11 ở trong vườn của ông Đặng Đình P làm mốc cố định. Từ mốc cố định đo về hướng Bắc 11m là mép chuẩn. Từ điểm giao nhau này đo về hướng Tây 37,9m là đầu vết phanh thứ nhất dài 19,5m, đầu vết phanh rộng 0,5m, cong về hướng Nam và nhạt dần theo hướng từ Đông sang Tây. Từ đầu vết phanh thứ nhất đo về hướng Tây 18,3m là đầu vết cày thứ nhất dài 1,2m, nơi rộng nhất là 0,04m, nơi sâu nhất 0,003m, hướng từ Đông sang Tây. Đầu vết cày đo đến mép chuẩn là 2,9m, cuối vết cày đo đến mép chuẩn là 2,3m. Toàn bộ vết cày nằm trùng trên vết phanh thứ nhất, cuối vết cày trùng với cuối vết phanh thứ nhất. Từ đầu vết phanh thứ nhất đo về hướng Tây 8,5m là đầu vết thứ hai dài 13m, đầu vết phanh rộng 0,4m, đo đến mép chuẩn là 2,5m, cuối vết phanh rộng 0,5m, đo đến mép chuẩn là 0,85m, nhạt dần theo hướng từ Đông sang Tây. Từ cuối vết cày thứ nhất đo về hướng Tây 6,9m là tâm trục bánh sau cùng bên phải sơ mi rơ móc BKS 37R- 023.17. Từ cuối vết cày thứ nhất đo về hướng Tây 7,4m là tâm trục bánh sau cùng bên trái sơ mi rơ móc BKS 37R-023.17. Từ cuối vết phanh thứ hai đo về hướng Tây 5,3m là tâm trục bánh sau bên trái sơ mi rơ móc BKS 37R-023.17. Bánh sau bên trái sơ mi rơ móc nằm trên mép chuẩn. Mép ngoài bánh sau cùng bên phải sơ i rơ móc đo đến mép chuẩn là 2,4m, đo đến vạch kẻ tâm đường nét đứt màu vàng là 1,8. Phần sơ mi rơ móc trong tư thế đỗ dừng. Từ trục sau bên phải sơ mi rơ móc BKS 37R-023.17 đo về hướng Tây 6,5m là đầu vết cày thứ hai dài 0,4m, rộng 0,01m, sâu 0,002m, đầu vết cày đo đến mép chuẩn là 1,8m, cuối vết cày đo đến mép chuẩn là 1,8m. Từ trục sau bên trái sơ mi rơ móc BKS 37R-023.17 đo về hướng Tây 2,3m là đầu vết màu đỏ bám trên hộ lan dài 1,1m, cách mặt đất 0,7m, đầu vết màu đỏ và cuối vết màu đỏ đo đến mép chuẩn là 0,5m. Từ cuối vết màu đỏ bám trên hộ lan đo về hướng Tây 8,2m là tâm trục bánh trước xe mô tô BKS 38P1-344.59, trục trước bánh xe nằm trên mép chuẩn. Từ tâm trục trước xe mô tô đo đến tâm trục sau xe mô tô là 1,2m, tâm trục sau bánh xe nằm ngoài mép chuẩn, đo đến mép chuẩn là 0,5m. Xe mô tô BKS 38P1- 344.59 trong tư thế nằm nghiêng, đầu xe hướng Đông, đuôi xe hướng Tây. Từ tâm trục sau xe mô tô BKS 38P1-344.59 đo về hướng Bắc 1,9m là tâm vùng chất dịch màu đỏ (nghi là máu) có kích thước 1,3 x 0,6m, đo đến mép chuẩn là 1,1m. Vùng chất chất dịch màu đỏ nằm dưới Cabin xe đầu kéo BKS 37C- 038.81. Từ tâm trục bánh trước bên trái xe ô tô đầu kéo BKS 37C-036.81 đo về hướng Tây 1,3m là mảnh kim loại có nhiều lỗ kích thước 0,19 x 0,39m, mảnh kim loại nằm ngoài mép chuẩn, đo đến mép chuẩn là 0,3m. Từ tâm mảnh kim loại đo về hướng Tây 1,3m là mảnh vỡ nhựa sơn màu đỏ kích thước 0,45 x 0,17m, mảnh vỡ nhựa nằm ngoài mép chuẩn, đo đến mép chuẩn là 1,1m.

Tại kết luận giám định pháp y tử thi số 130/GĐPY ngày 31/5/2021 của Phòng Kỷ thuật hình sự Công an Hà Tĩnh kết luận về kết quả giám định tử thi anh Nguyễn Đăng T: Trên cơ thể có nhiều vết xây xát rải rác; vùng đầu biến dạng; vết thương vùng thái dương - mặt bên phải gây võ xương hộp sọ, tổ chức não trào ra ngoài. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 99/TgT ngày 06/8/2021 của Trung tâm Pháp y và giám định y khoa Hà Tĩnh kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Phan Đình V tại thời điểm giám định là 57%.

Kết luận giám định số 23/PC09-CH ngày 02/6/2021 của Phòng Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh, kết luận: Xe ô tô mang BKS 37C-336.81 kéo theo sơ mi rơ moc mang BKS 37R-023.17 với xe mô tô mang BKS 38P1-344.59 có va chạm với nhau. Góc bên trái ba - đơ - sốc phía trước xe ô tô với đầu xe mô tô là vị trí va chạm đầu tiên. Hai phương tiện va chạm ngược chiều nhau. Vị trí va chạm giữa hai phương tiện nằm trên phần đường phía bên phải theo chiều từ xã Điền Mỹ đi Ngã ba Phúc Đồng, huyện Hương Khê. 01 mảnh vỡ nhựa màu đen đỏ kích thước 37 x 24cm được gãy vỡ ra từ cách ướm bên trái, 01 mảnh vỡ nhựa trong suốt kích thước 17 x 19cm được gãy vỡ ra từ kính bảo vệ đèn chiếu sáng phía trước xe mô tô mang BKS 38P1-344.59. 01 mảnh vỡ nựa màu đỏ kích thước 48 x 18cm được gãy rơi ra từ bậc lên xuống trên trái xe ô tô mang BKS 37C-336.81.

Kết luận định giá tài sản ngày 10/9/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Hương Khê xác định giá trị thiệt hại phần hư hỏng của xe ô tô đầu kéo BKS 37C-336.81 là 3.400.000đ; xe mô tô BKS 38P1-344.59 là 1.990.000đ.

Về vật chứng thu giữ, xử lý: 01 xe ô tô đầu kéo hiệu Foton màu đỏ, BKS 37C-336.81 kéo theo rơ móc BKS 37R-023.17 và 01 xe mô tô hiệu Yamaha màu đen đỏ, BKS 38P1-344.59. Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi gây tai nạn bị cáo Trần Trọng S và anh Nguyễn Phước H là người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu HM đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 190 triệu đồng và bồi thường cho anh Phan Đình V số tiền 60 triệu đồng. Đại diện gia đình bị hại và anh Phan Đình V không có yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 37/CT-VKS-HS ngày 05/10/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Trần Trọng S về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Trọng S khai nhận về hành vi của mình như nội dung trên và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo thành thật xin lỗi gia đình bị hại, thể hiện sự ăn năn hối cải và xin được cải tạo, giáo dục tại địa phương.

Đại diện người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH Xuất nhập khẩu HM không có yêu cầu, không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Trọng S về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng S tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án trên. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa như Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản, kết luận khám nghiệm tử thi, phương tiện liên quan trong vụ tai nạn và các biên bản, kết quả điều tra là phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 30/5/2021, Trần Trọng S có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 37C-336.81 kéo theo sơ mi rơ móc BKS 37R-023.17 đi trên đường Hồ Chí Minh theo hướng huyện Hương Khê đi huyện Vũ Quang. Khi đi đến Km 813+800 đường Hồ Chí Minh thuộc xóm 9, xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê do phán đoán xử lý tránh phương tiện đi cùng chiều phía trước bị cáo điều khiển xe ô tô đi lấn sang phần đường bên trái theo chiều đi của mình nên đã đâm vào xe mô tô BKS 38P1-344.59 do anh Nguyễn Đăng T điều khiển chở anh Phan Đình V đi ngược chiều. Hậu quả anh Nguyễn Đăng T tử vong tại chỗ; anh Phan Đình V bị tổn thương cơ thể 57% và xe mô tô BKS 38P1-344.59 bị thiệt hại 1.990.000đ.

[3] Hành vi của bị cáo do không tuân thủ quy tắc khi tham gia giao thông đường bộ được quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ “Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định”, gây ra hậu quả làm chết 01 người. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự, thuộc trường hợp “Làm chết người”. Vì vậy, Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Nguyên nhân, lỗi do bị cáo xử lý tránh xe cùng chiều, lấn sang phần đường xe ngược chiều nên gây tai nạn. Do đó, cần phải đưa ra xét xử để đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi xẩy ra tại nạn mặc dù điều kiện hoàn cảnh khó khăn nhưng bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại đầy đủ cho gia đình bị hại; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” và “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có bố là ông Trần Trọng Năm và mẹ bà Phan Thị Tiến đều được tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất là người có công với cách mạng, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ khác tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Xét về tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và xét bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội với lỗi vô ý, được gia đình bị hại bãi nại, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo như lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật tạo điều kiện cho bị cáo được giáo dục, cải tạo tại địa phương là phù hợp.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các điều, khoản, điểm; tội danh; hình phạt và biện pháp áp dụng; án phí là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về các biện pháp tư pháp không có nên Hội đồng xét xử không xét. [9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Trần Trọng S phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Trọng S 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Trọng S cho Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt hoặc thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 43/2021/HS-ST

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về