TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 35/2024/HS-PT NGÀY 19/03/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 19 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 250/2023/TLPT-HS ngày 03/11/2023 đối với bị cáo Trần Minh Q, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 162/2023/HS-ST ngày 23/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ.
* Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Trần Minh Q, sinh năm 1983; nơi sinh: Đ; nơi cư trú: 49/25 Y , Tổ dân phố 3, phường T Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lái xe; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Trần Minh Ch (đã chết); con mẹ: Trần Thị M; vợ: Nguyễn Thị Ánh Ng; con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/04/2023, đến ngày 27/06/2023 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho Bảo lĩnh. Có mặt.
Trong vụ án này còn có đại diện hợp pháp của bị hại, bị đơn dân sự không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, vụ án bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Minh Q có giấy phép lái xe hạng B2 do sở Giao thông vận tải Đ cấp ngày 04/12/2020, có giá trị đến ngày 04/12/2030. Q làm nghề lái xe taxi cho Cty TNHH Đ. Ngày 15/10/2022, Quân điều khiển xe ô-tô BKS 49A – xxxxx lưu thông trên QL 20 theo hướng Đà Lạt – Di Linh, trên xe có chở Nguyễn Thị Quỳnh Ch, sinh năm 2003, trú tại thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đ. Khoảng 05 giờ 20 phút cùng ngày, khi đến tại Km 203+500, Quốc lộ 20, TT Liên Nghĩa, huyện Đ, tỉnh Đ thì xe Quân điều khiển tông vào xe ô-tô BKS 47C – xxxxx do Võ Thành T, sinh năm 1991, trú tại xã Liên Sơn huyện Lắk, tỉnh Đ điều khiển theo hướng Di Linh – Đà Lạt. Hậu quả Nguyễn Thị Quỳnh Ch tử vong.
Quá trình khám nghiệm hiện trường, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được xác định: Nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn giao thông trên là do lỗi Trần Minh Q điều khiển xe lấn sang phần đường ngược chiều gây tai nạn. Kết luận giám định pháp y về tử thi số 184/KLPY-PC09 ngày 16/10/2022 của Phòng Ký thuật Hình sự Công an tỉnh Đ kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Thị Quỳnh Ch: Chấn thương sọ não.
Kết quả đo nồng độ cồn hơi thở của Trần Minh Q và Võ Thành T tại thời điểm xảy ra tai nạn là 00mg/lít khí thở.
Kết luận định giá tài sản số 132/KL-HĐĐG ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định giá trị hư hỏng của xe ô tô BKS 47C – xxxxx là 21.006.000đ.
Về xử lý vật chứng: Xe ô-tô biển kiểm soát 49A – xxxxx và xe ôtô biển kiểm soát 47C – xxxxx Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp nên không xem xét.
* Về trách nhiệm dân sự:
- Trần Minh Q cùng Công ty TNHH Đ đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 380.000.000đ, gia đình bị hại có đơn bãi nại cho Quân.
- Trần Minh Q cùng Công ty TNHH Đ đã bồi thường cho chủ xe ô- tô BKS 47C – xxxxx số tiền 37.000.000đ.
Tại bản cáo trạng số 157/CT - VKS ngày 21 tháng 7 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Đ để xét xử bị cáo Trần Minh Q về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 162/2023/HS-ST ngày 23/08/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Minh Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Trần Minh Q 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam chấp hành án. Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/4/2023 đến ngày 27/6/2023 vào thời gian chấp hành án.
Ngoài ra, bản án tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 28/08/2023, bị cáo Trần Minh Q kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa thẩm, bị cáo khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xét xử;
đồng thời giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, nên đủ cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như bản án sơ thẩm quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo thống nhất với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng với tất cả các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 15/10/2022, trên QL20 thuộc thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đ, bị cáo Trần Minh Q điều khiển xe ô-tô BKS 49A – xxxxx trên xe chở theo chị Nguyễn Thị Quỳnh Ch lưu thông trên đường không làm chủ tốc độ, lấn sang phần đường ngược chiều dẫn đến tông vào xe ô-tô BKS 47C – xxxxx do ông Võ Thành T điều khiển, hậu quả làm Nguyễn Thị Quỳnh Ch tử vong.
Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Trần Minh Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng; Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả và được gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xem xét nhân thân của bị cáo và xử phạt bị cáo mức án 12 tháng tù, mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Minh Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Trần Minh Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trần Minh Q 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam chấp hành án. Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/4/2023 đến ngày 27/6/2023 vào thời gian chấp hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Minh Q phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 35/2024/HS-PT
Số hiệu: | 35/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về