TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 19 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2023/ TLST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
- Bị cáo Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/3/2003; tại V, Long An; nơi cư trú: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Minh T1 và bà Huỳnh Ánh N; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/4/2022 bị Công an huyện T xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi ném vỏ chai bia vào nhà người khác; ngày 28/7/2023 bị Công an xã T xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).
- Bị hại: Anh Nguyễn Thành L ( đã chết)
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
1. Ông Nguyễn Minh K, sinh ngày: 08/4/1973; Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An; là cha ruột của Nguyễn Thành L (có mặt)
2. Bà Lê Thị T2, sinh năm: 1973; Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An; là mẹ ruột của Nguyễn Thành L (có mặt)
3. Chị Trần Thị Hồng P, sinh ngày 15/9/1999; Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An; là vợ của Nguyễn Thành L (có mặt)
4. Cháu Nguyễn Thị Ngọc T3, sinh ngày: 12/5/2018; là con của Nguyễn Thành L.
Người đại diện hợp pháp của cháu T3: Chị Trần Thị Hồng P, sinh ngày: 15/9/1999; Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An; là mẹ ruột của cháu T3 (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Ông Nguyễn Văn Minh T1, sinh năm: 1981; Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện V, tỉnh Long An (có mặt)
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Thế N1 (vắng mặt)
2. Anh Trương Văn T4 (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 27/7/2023 Nguyễn Thành L điều khiển xe mô tô loại Dream, gắn biển số 66P1-xxxxx chở Nguyễn Văn T đi bốc xếp lúa thuê tại ấp Đ, xã T, huyện V, tỉnh Long An. Khoảng 13 giờ 30 cùng ngày T và L tiếp tục đi bốc xếp lúa thuê gần nơi làm trước. L bảo T điều khiển xe mô tô 66P1-xxxxx chở L ngồi phía sau, T điều khiển xe mô tô đến cầu ván gỗ bắc qua kênh B sông V là cầu dân sinh, không có lan can bảo vệ, cầu có ba nhịp (02 nhịp đầu cầu và 01 nhịp giữa), khi đến nhịp cầu thứ 3 do không làm chủ tay lái nên xe bị ngã về phía bên trái cầu, L và T cùng xe mô tô rơi xuống kênh. Hậu quả Nguyễn Thành L bị thương nặng và tử vong tại Trạm y tế xã Tuyên Bình Tây cùng ngày.
Kết quả khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông lúc 14 giờ 50 phút ngày 27/7/2023 thể hiện: Hiện trường đã bị xáo trộn một phần do người dân cấp cứu nạn nhân và người dân đi qua lại cầu dân sinh.
Hiện trường xảy ra tại cầu dân sinh, mặt cầu bằng gỗ, cầu dài 27,5m, rộng 1,16m; cầu có 03 nhịp (hai nhịp 02 bên đầu cầu và 01 nhịp giữa), tại nhịp thứ 3 nơi xảy ra tai nạn có chiều dài 9m, chiều rộng 1,16m; nơi xảy tai nạn cách mặt nước là 3,9m; dưới kênh nơi xảy ra tai nạn có 01 đoạn cây gỗ tròn dài 1,7m đường kính 2,5cm được cấm xuống đất, đầu cây gỗ có vết xước kích thước 05cm x 02cm, lúc xảy ra tại nạn mặt cầu khô ráo, ánh sáng tốt.
Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông lúc 15 giờ 45 phút ngày 27/7/2023, khám nghiệm xe mô tô, loại xe Dream, được gắn biển số 66P1-xxxxx, không có số máy, số sườn được thể hiện:
Mặc nạ phía trước của xe rời khỏi vị trí ban đầu.
Chảng ba bị cong về phiá sau.
Gác chân bên trái người điều khiển phương tiện cong hướng từ trước ra sau.
Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 777/KLGĐTT-KTHS, ngày 07/8/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh L, đã kết luận về nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Thanh L1, sinh năm 1999 như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định - Chấn thương ngực:
+ 01 vết rách, thủng da, cơ tại hõm nách bên trái;
+ Thủng khoảng gian sườn 1 đường nách trước bên trái và thùy trên phổi trái; thủng, đứt cung động mạch chủ, thủng khí quản và thùy trên phổi phải;
+ Tụ máu trung thất giữa, tràn máu khoang màng phổi hai bên khoảng 2000ml.
2. Kết luận:
- Kết luận nguyên nhân chết: Mất máu cấp do vết thương vùng ngực trái làm đứt động mạch chủ, thủng phổi”.
- Kết luận khác: Không Tại bản kết luận giám định độc chất số 1235/KLGĐĐC-TTPY.2023, ngày 29/8/2023 của Trung tâm pháp y Thành phố H đã kết luận trong máu và phủ tạng của Nguyễn Văn T có sự hiện diện của A (Paracetamol) (thuốc giảm đau, hạ sốt) và C( chất kích thích thần kinh trung ương yếu).
Tại bản kết luận số 6645/KL-KTHS ngày 30/10/2023 của V tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Dung tích xi lanh của xe gắn máy gắn biển số 66P1- xxxxx gửi đi giám định được xác định bằng phương pháp tính toán là 104 cm3.
Kết quả điều tra xác định nguyên nhân chính dẫn đến vụ tai nạn giao thông nói trên là do Nguyễn Văn T không có giấy phép lái xe theo quy định, đã điều khiển xe mô tô 66P1-xxxxx ( trên 50cm3) chở Nguyễn Thành L đi qua cầu, không có lan can bảo vệ, T không làm chủ tay lái nên gây ra tai nạn là vi phạm khoản 9 và khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ. Hậu quả làm Nguyễn Thành L tử vong.
Việc thu giữ vật chứng: Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 xe mô tô Dream gắn biển số 66P1-xxxxx, số máy, số khung: Không và 01 đoạn cây gỗ tròn dài 1,7m đường kính 2,5cm, đầu gỗ có vết xước kích thước 5cm x 2cm.
Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKSVH ngày 21/11/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận hành vi phạm tội đúng với nội dung của bản cáo trạng truy tố. Bị cáo không có khiếu nại về hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Đại diện hợp pháp của bị hại trình bày: Sau khi Nguyễn Thành L tử vong, gia đình của bị cáo đã đến động viên, chia sẽ và bồi thường số tiền 80.000.000 đồng. Nay không có yêu cầu bổ sung và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Minh T1 trình bày: Sau khi Nguyễn Văn T vi phạm pháp luật, gia đình đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 80.000.000 đồng. Nay tự nguyện tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000 đồng và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.
Người làm chứng anh Trương Văn T4 khẳng định ngày 27/7/2023, có đi bốc vác lúa, có chứng kiến Nguyễn Văn T chở Nguyễn Thành L bằng xe Dream tại cầu kênh bờ bắc của sông V, đến nhịp thứ 3 thì bị té ngã xuống kênh, anh có phụ vớt L lên bờ để đưa đi cấp cứu. Nay Tòa án xét xử là đúng người đã chở L; còn anh Trương Thế N2 có lời khai trong hồ sơ khẳng định vào ngày 27/7/2023 đang ngồi nhà anh P1 gần dốc cầu có thấy T chở L qua kênh bờ bắc sông V đến nhịp thứ 3 (đầu cầu phía bên đối diện) thì té ngã xuống kênh, T tự lên bờ, còn L được mọi người vớt lên và đưa đi cấp cứu.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260, Điều 38, Điều 50, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt. Đồng thời, Kiểm sát viên đề nghị không áp dụng tiền sự đối với bị cáo T là có căn cứ.
Về phần xử lý vật chứng: Kiểm sát viên đề nghị đối với chiếc xe mô tô Dream có gắn biển số 66P1-xxxxx, không có số khung, số máy chuyển giao Công an huyện V xử lý theo thẩm quyền; Đối với 01 đoạn cây gỗ tròn dài 1,7m, đường kính 2,5cm, đầu gỗ có vết xước kích thước 5cm x 2cm không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.
Về bồi thường thiệt hại: Trong quá trình điều tra, người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền 80.000.000 đồng của gia đình bị cáo để khắc phục, bồi thường cho bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bổ sung nhưng tại phiên tòa anh Nguyễn Văn M T1 là cha của bị cáo tự nguyện bồi thường tiếp cho gia đình bị hại do chị Trần Thị Hồng P làm đại diện nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
Bị cáo và đại diện pháp của bị hại không có ý kiến tranh luận; bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận về hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố được tiến hành theo trình tự thủ tục, các bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã thừa nhận hành vi phạm tội đúng theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản giám định, Biên bản khám nghiệm phương tiện; phù hợp với lời khai của người làm chứng và tang vật của vụ án, đủ cơ sở xác định: khoảng 13 giờ 30 phút ngày 27/7/2023, Nguyễn Văn T chưa có giấy phép lái xe theo quy định, nhưng T đã điều khiển xe mô tô được gắn biển số 66P1- xxxxx có dung tích xi lanh được giám định là 104cm3 chở Nguyễn Thành L, đi qua cầu ván gỗ bắc qua kênh B sông V, cầu có 03 nhịp, đến nhịp thứ 3 do không làm chủ tay lái nên xe bị ngã phía bên trái cầu, L và T cùng xe mô tô rơi xuống kênh. Hậu quả, anh Nguyễn Thành L bị thương và tử vong tại trạm y tế xã T.
[3] Bị cáo Nguyễn Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được việc điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50cm3 trở lên phải có giấy phép lái xe, biết mình chưa đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, chưa có giấy phép lái xe, nhưng vẫn nhận xe của anh L để tham gia giao thông dẫn đến việc khi điều khiển xe không đảm bảo an toàn cho người và phương tiện khác đã gây tai nạn và hậu quả làm chết một người. Bị cáo T đã vi phạm khoản 9, 23 Điều 8 và khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại về tài sản, tính mạng của người khác, bị cáo T khi tham gia giao thông không có ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn giao thông cho bị cáo và cho người khác được quy định tại Điều 4 Luật giao thông đường bộ, đã xâm phạm đến hoạt động an toàn giao thông đường bộ, ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả đối với hành vi phạm tội của các bị cáo để có biện pháp giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Bị cáo T sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã cùng với gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; Đại diện hợp pháp gia đình bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo T. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội do lỗi vô ý và có một phần lỗi của bị hại. Do đó, bị cáo T được áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt.
[6] Đối với bị hại Nguyễn Thành L đã giao xe cho bị cáo T không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao thông, nhưng bị hại L đã chết và không thuộc trường hợp gây thiệt hại về tài sản, về người khác, do chính bị hại giao xe cho bị cáo T nên không xem xét về “Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Hình sự.
[7] Về hình phạt bổ sung:
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.
[8] Về bồi thường thiệt hại: Gia đình của bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 80.000.000 đồng, ông Nguyễn Minh K là cha ruột của bị hại đã nhận đủ số tiền. Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn M T1 là cha của bị cáo tự nguyện bồi thường tiếp số tiền 10.000.000 đồng cho gia đình bị hại. Những người đại diện hợp pháp của bị hại thống nhất cử đại diện Trần Thị Hồng P được nhận số tiền của anh T1 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Về xử lý vật chứng:
Đối với chiếc xe mô tô Dream có gắn biển số 66P1-xxxxx, không có số khung, số máy đã gây tai nạn, nhưng chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, cần chuyển giao Công an huyện V xử lý theo thẩm quyền.
Đối với 01 đoạn cây gỗ tròn dài 1,7m, đường kính 2,5cm, đầu gỗ có vết xước kích thước 5cm x 2cm không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.
[10] Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Anh T1 phải chịu án phí dân sự của số tiền 10.000.000 đồng, mức án phí là 5% theo quy định của pháp luật.
[11] Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 260, Điều 38, 50, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự;
Căn cứ vào điểm c khoản 2, khoản 4 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 329, 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ Điều 591 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.
3. Về bồi thường thiệt hại:
Anh Nguyễn Văn Minh T1 tự nguyện bồi thường tiếp số tiền 10.000.000 đồng cho gia đình bị hại do chị Trần Thị Hồng P là đại diện nhận tiền.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 02 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
4. Về xử lý vật chứng:
Chuyển giao Công an huyện V xử lý theo thẩm quyền đối với chiếc xe mô tô Dream được gắn biển số 66P1-xxxxx, không có số khung, số máy.
Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn cây gỗ tròn dài 1,7m, đường kính 2,5cm, đầu gỗ có vết xước kích thước 5cm x 2cm.
(Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng quản lý)
5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Anh Nguyễn Văn Minh T1 phải chịu 500.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 31/2023/HS-ST
Số hiệu: | 31/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về