Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 30/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 24 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Tuyên Quang mở phiên toà sơ thẩm xét xử theo hình thức số hoá, công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2023/TLST-HS, ngày 28 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2023/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 10/10/1982 tại huyện H, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Lê Lợi, xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc;

Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ đoàn thể: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1930 (đã chết) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1936; anh chị, em ruột: có 09 người bị cáo là thứ chín; vợ: Triệu Thị H, sinh năm 1985; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2008 con bé sinh năm 2012;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

(Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Ông Hoàng Văn P, sinh năm 1973 và anh Hoàng Văn T, sinh năm 2000 (đều đã chết).

Người đại diện hợp pháp của các bị hại: Ông Dương Văn T, sinh năm 1983 (cháu ruột của ông P); trú tại: Thôn Ngòi Sen, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Dương Văn T: Bà Nguyễn Thị P – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang.

(Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Dư Kiến Q, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Khu 10, xã N, huyện P, tỉnh Phú Thọ.

(Vắng mặt tại phiên tòa, có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Rạng sáng ngày 14/10/2022, Nguyễn Văn C sinh năm 1982, trú tại thôn Lê Lợi, xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc một mình điều khiển xe ô tô 07 chỗ, biển kiểm soát 88A-348.xx (của C) từ tỉnh Hà Giang đến tỉnh Vĩnh Phúc Quốc lộ 2 theo hướng Hà Giang – Hà Nội. Khoảng 04 giờ 15 phút cùng ngày, C điều khiển xe ô tô trên đi đến Km 203+400 Quốc lộ 2 thuộc thôn Km 68, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, do ngủ gật C điều khiển xe ô tô đi lấn sang toàn bộ phần đường bên trái theo chiều đi của mình đâm vào xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 do ông Hoàng Văn P sinh năm 1973, trú tại thôn Ngòi Sen, xã Y, huyện H điều khiển đi ngược chiều chở phía sau là anh Hoàng Văn T (con trai ông P) sinh năm 2000 trú cùng thôn, làm xe mô tô bị đẩy lùi về phía sau đổ xuống đường, ông P và anh T ngã xuống đường. Sau khi va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 (của ông P), xe ô tô do C điều khiển tiếp tục di chuyển ra lề đường bên trái theo chiều đi và đâm vào xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 88C-175.88 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 88R-009.13 (của Hoàng Huy Q sinh năm 1985, trú tại tổ dân phố 18, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc) đang đỗ ở bãi tập kết gỗ bên ngoài lề đường bên trái theo chiều đi của C. Hậu quả ông P và anh T chết tại hiện trường, các phương tiện bị hư hỏng.

Tiến hành kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở hồi 09 giờ 43 phút ngày 14/10/2022 đối với Nguyễn Văn C, kết quả: 0 miligam/01 lít khí thở. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể đối với Nguyễn Văn C, kết quả: (-) Âm tính, không có chất ma túy trong cơ thể.

Hồi 07 giờ 15 phút ngày 14/10/2022 Tiến hành khám nghiệm hiện trường tại Km 203+400 Quốc lộ 2, thuộc thôn Km 68, xã Y, huyện H, xác định: Mặt đường trải nhựa áp phan, mặt đường bằng phẳng hơi cua sang trái, lươn xuống dốc về phía Hà Nội tầm nhìn trên 70m. Mặt đường tính từ mép ngoài hai vạch sơn kẻ liền màu trắng hạn định lề đường rộng 7,4m, ở giữa có vạch sơn ngắt quãng màu vàng phân chia hai chiều đường. Bên phải là lề bê tông rộng đến chân hàng hộ lan là 80cm, hàng hộ lan bằng kim loại cao 85cm, tiếp đến là rãnh thoát nước rộng 1m30, sâu 40cm. Bên trái là lề bê tông rộng đến chân hàng hộ lan là 1m15, hàng hộ lan bằng kim loại cao 85cm, tiếp đến là taluy âm xuống khe sâu 2,5m.

Xác định điểm mốc là cột tiêu có ký hiệu “44/203” nằm ngoài mép đường nhựa trái 1,3m, khám nghiệm theo hướng Hà Giang - Hà Nội và lấy mép đường nhựa trái làm chuẩn.

Từ điểm mốc đo về phía Hà Nội sang phải 6,5m phát hiện trên mặt đường nhựa có vết phanh lết màu đen ngắt quãng. Vết phanh có chiều hướng Hà Giang - Hà Nội chéo từ phải sang trái dài 14,45m, chỗ rộng nhất 12cm, điểm cung nhất của vết phanh cách mép đường trái 3,35m. Tâm điểm khởi đầu cách mép đường trái 3,4m, tâm điểm kết thúc cách mép đường trái 2,85m (Ký hiệu số 01); Từ tâm điểm khởi đầu vị trí số 01 về phía Hà Nội sang trái 19,85m phát hiện vết cày xước ngắt quãng trên mặt đường, chiều hướng Hà Giang – Hà Nội chéo từ phải sang trái dài 42,37m, chỗ rộng nhất 01m, tâm điểm khởi đầu cách mép đường trái 1,45m, kết thúc tại giá để chân trước xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 cách mép đường trái 3,35m (ký hiệu số 02); Xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 88C-175.88 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 88R- 009.13 đỗ vuông góc với đường, má ngoài lốp trước bên phải xe ô tô đầu kéo nằm ngoài mép đường nhựa trái 9,68m (ký hiệu số 09).

Tại Kết luận giám định số 1369/KL-KTHS ngày 11/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận:

1. Vị trí va chạm đầu tiên giữa xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx với xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 tại phía trước điểm đầu dải các vết vày ngắt quãng (vị trí số 02 trong Biên bản khám nghiệm hiện trường) và thuộc làn đường bên trái theo hướng Hà Giang – Hà Nội; xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx va chạm với xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 88C-175.88 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 88R- 009.13 đang dừng đỗ ngoài lề đường trái theo hướng khám nghiệm là phù hợp.

2. Các vết móp méo, biến dạng, trượt xước mất sơn, rách tôn tại thành đầu xe bên phải tương ứng vị trí phía trên lốp trước bên phải đến cánh cửa trước bên phải của xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx (Ảnh số 13 trong Bản ảnh giám định) hình thành do va chạm với các vết trượt xước, cong vênh biến dạng tại mặt trước tay phanh, các chi tiết kim loại ở đầu xe phía trước bên phải của xe mô tô biển kiểm soát 22Y1- 051.05 (Ảnh số 14 trong Bản ảnh giám định) là phù hợp.

Các vết trượt xước kim loại tại mặt ngoài vành bánh trước bên phải của xe ô tô biển số 88A-348.xx (Ảnh số 15 trong Bản ảnh giám định) hình thành do va chạm với cá vết trượt xước, cong vênh, hướng từ trước ra sau tại mặt ngoài càng xe, ống giảm xóc, đầu trục trước bên phải của xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 (Ảnh số 16 trong Bản ảnh giám định) là phù hợp.

Các vết móp, lõm vỡ nhựa, bật cá hãm tại mặt ca-lăng, nắp ca-pô, hệ thống đèn chiếu sáng hai bên, lưới tản nhiệt của xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx (Ảnh số 17 trong Bản ảnh giám định) hình thành do va chạm với các vết cong vênh, móp lõm tại mặt ngoài hệ thống lọc gió, chắn bùn sau bánh trước bên phải, mặt ngoài bánh lốp trước bên phải, phía dưới hộp kích ca-bin xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 88C-175.88 (Ảnh số 18 trong Bản ảnh giám định) kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 88R- 009.13 là phù hợp.

3. Không xác định tốc độ của các phương tiện ngay trước thời điểm va chạm.

4. Tại thời điểm va chạm xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx và xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 chuyển động ngược chiều nhau là phù hợp.

Tại Kết luận giám định số 1263/KL-KTHS ngày 31/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, đối với dấu vết màu nâu đỏ thu tại hiện trường mẫu ký hiệu A1, A2, A3, kết luận: Trên các mẫu ký hiệu A1, A2, A3 gửi giám định có máu người, thuộc nhóm máu B. Máu của tử thi Hoàng Văn P (ký hiệu M1) thuộc nhóm máu B. Máu của tử thi Hoàng Văn T (ký hiệu M2) thuộc nhóm máu B.

Tại Kết luận giám định số 1265/KL-KTHS ngày 24/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu máu thu của tử thi Hoàng Văn P gửi giám định không có cồn (Ethanol).

Tại Kết luận giám định số 1266/KL-GĐKTHS ngày 24/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, đối với mẫu máu thu của tử thi Hoàng Văn P, kết luận: Không tìm thấy các chất ma túy thường gặp (Morphine; Heroine;

Methamphetamine; MDMA; Delta-9-tetrahydrocanabinol; Ketamine) trong mẫu gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 1267/KL-KTHS ngày 24 tháng 10 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu máu thu của tử thi Hoàng Văn T gửi giám định không có cồn (Ethanol).

Tại Kết luận giám định số 1268/KL-GĐKTHS ngày 24 tháng 10 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, đối với mẫu máu thu của tử thi Hoàng Văn T, kết luận: Không tìm thấy các chất ma túy thường gặp (Morphine; Heroine; Methamphetamine; MDMA; Delta-9-tetrahydrocanabinol; Ketamine) trong mẫu gửi giám định.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 1239/KL-KTHS ngày 14 tháng 11 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, đối với tử thi Hoàng Văn P, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vùng đầu, mặt, cổ, ngực, bụng, hai tay, hai chân có các vết bầm tím, sây sát, rách mất da.

- Chấn thương gãy kín 1/3 dưới hai xương cẳng tay phải, gãy kín đầu dưới 2 xương cẳng tay trái, gãy hở 1/3 trên đùi phải.

- Chấn thương ngực kín: Các xương sườn hai bên gãy ở cung trước và cung bên.

- Chấn thương sọ mặt: Đầu, mặt biến dạng. Xương vòm sọ vỡ thành nhiều mảnh, xương hốc mắt phải, xương gò má phải và cung tiếp gãy; xương hàm trên gãy qua khe răng 2.5, 206; xương hàm dưới gãy qua khe răng 4.1, 4.2.

2. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não.

3. Kết luận khác:

- Test nhanh HbsAg với máu tử thi, kết quả dương tính (viêm gan vi rút B).

- Vị trí, đặc điểm dấu vết trên thân thể đã mô tả ở trên.

- Cơ chế gây thương tích: Các thương tích trên thân thể Hoàng Văn P do va đập với vật tày gây ra.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 1240/KL-KTHS ngày 14 tháng 11 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, đối với tử thi Hoàng Văn T, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vùng đầu, mặt, ngực, tay phải, chân phải có các vết bầm tím, sây sát, rách mất da.

- Chấn thương gãy hở 1/3 dưới xương đùi phải.

- Chấn thương sọ mặt: Tổ chức dưới da đầu vùng thái dương chẩm trái bầm tím, tụ máu, chảy máu. Xương sọ vùng chẩm trái có đường vỡ ngang, kích thước (7x1,2)cm, qua khe vỡ có máu loãng không đông chảy ra, màng cứng rách, tổ chức não dập nát. Xương hàm dưới gãy qua khe răng 3.1, 3.2.

2. Nguyên nhân chết:

Chấn thương sọ não.

3. Kết luận khác:

- Vị trí, đặc điểm dấu vết trên thân thể đã mô tả ở trên.

- Cơ chế gây thương tích: Các thương tích trên thân thể Hoàng Văn T do va đập với vật tày gây ra.

Tại Kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐGTS ngày 15 tháng 02 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự đối với các bộ phận bị hư hỏng của xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05, đăng ký lần đầu ngày 11 tháng 12 năm 2012. Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại tại thời điểm tháng 10 năm 2022 là: 145.457 đồng.

Tại Cáo trạng số 26/CT-VKSHY, ngày 27 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố Nguyễn Văn C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn C về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 02 năm 06 tháng đến 02 năm 09 tháng tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách 05 năm. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho Nguyễn Văn C 01 Giấy phép lái xe hạng B2. Ghi nhận việc bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại tổng số tiền 560.000.000 đồng, gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản tiền nào khác.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đại diện hợp pháp của các bị hại: Nhất trí với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát về việc xác định tội danh và mức hình phạt đề nghị áp dụng. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại tổng số tiền 560.000.000 đồng và rất thành khẩn trong quá trình giải quyết vụ án. Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về việc đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo. Các nội dung khác Trợ giúp viên không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiên, bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Viện kiểm sát; bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Người đại diện hợp pháp của các bị hại, xác nhận việc bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại tổng số tiền 560.000.000đ (Năm trăm sáu mươi triệu đồng), gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản tiền nào khác và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Dư Kiến Q, có đơn xin vắng mặt tại phiên toà, giữ nguyên các nội dung đã trình bày tại giai đoạn điều tra.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các Điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo, đại diện gia đình bị hại tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa; căn cứ biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ, bản ảnh hiện trường; các biên bản, bản ảnh khám phương tiện; biên bản, bản ảnh khám nghiệm tử thi; kết luận giám định pháp y về tử thi, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các tài liệu, chứng cứ hoàn toàn phù hợp và đủ cở sở kết luận: Khoảng 05 giờ 40 phút ngày 14/10/2022 tại Km 203+400 Quốc lộ 2 thuộc địa phận thôn Km68, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn C, sinh năm 1982 trú tại thôn Lê Lợi, xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx điều khiển theo hướng Hà Giang - Hà Nội do buồn ngủ đã đi lấn sang toàn bộ phần đường dành cho xe đi ngược chiều (vi phạm khoản 1 Điều 11 Luật giao thông đường bộ) va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 do Hoàng Văn P, sinh năm 1973, trú tại thôn Ngòi Sen, xã Y, huyện H điều khiển ngược chiều chở theo con trai là Hoàng Văn T, sinh năm 2000, trú cùng thôn với Páo. Xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx do chín điều khiển tiếp tục lao về phía trước và va chạm với xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 88C-175.88 kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 88R-009.13 của của Hoàng Huy Q sinh năm 1985, trú tại tổ dân phố 18, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc đang đỗ ở bãi tập kết gỗ ngoài lề đường bên trái theo chiều đi của Chín. Hậu quả: Hoàng Văn P và Hoàng Văn T chết tại hiện trường, xe, xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05 bị hư hỏng thiệt hại 145.457 đồng. Hành vi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông không đảm bảo an toàn, đi lấn sang phần đường dành cho xe đi ngược chiều mà bị cáo đã thực hiện là vi phạm các quy định của pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn dẫn đến hậu quả ông Hoàng Văn P và anh Hoàng Văn T chết, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng là hoàn toàn đúng người, đúng tội, có căn cứ, không oan.

Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của các bị hại, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức, đã được cấp Giấy phép lái xe đúng quy định, hoàn toàn nhận thức được khi tham gia giao thông phải tuân thủ đầy đủ các quy tắc tham gia giao thông và các quy định của pháp luật. Việc để xảy ra tai nạn giao thông dẫn đến cái chết của các bị hại là do lỗi vô ý, ngoài ý muốn của bị cáo nhưng vẫn xuất phát từ ý thức chủ quan của bị cáo khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông không đảm bảo an toàn. Nên không xử lý được tình huống, xe ô tô do bị cáo điều khiển đã đi lấn hoàn toàn sang phần đường dành cho xe đi ngược chiều, va chạm trực tiếp với xe mô tô do bị hại điều khiển dẫn đến các bị hại chết. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới có đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Từ giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo đã có ý thức tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; đại diện gia đình bị hại có ý kiến xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có chú ruột là liệt sỹ, UBND xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phú xác nhận bị cáo đang là người thờ cúng Liệt sỹ Nguyễn Văn Bang; bố đẻ bị cáo, ông bà nội và chú ruột của bị cáo đều là những người có công với cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ mức hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, xem xét áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đang áp dụng để xử lý bị cáo.

Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa vi phạm pháp luật lần nào, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, tai nạn giao thông xảy ra là ngoài ý muốn của bị cáo. Căn cứ các quy định của pháp luật và hoàn cảnh thực tế của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo tại địa phương, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Việc áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt của khung hình phạt áp dụng xử lý đối với bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp với nhân thân của bị cáo, phù hợp với các quy định của pháp luật và thể hiện sâu sắc sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, tạo điều kiện cho họ có ý thức tích cực, cải tạo tốt, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Hình phạt và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên toà là phù hợp nên cần chấp nhận.

[5] Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tạm giữ của Nguyễn Văn C 01 xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô; 01Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyên xe ô tô cùng của xe ô tô biển kiểm soát 88A-348.xx. Ngày 05 tháng 12 năm 2022 đã trả lại xe ô tô cùng giấy tờ liên quan cho Triệu Thị H, sinh năm 1985, trú tại thôn Lê Lợi, xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc (vợ Chín), 01 Giấy phép lái xe hạng B2 của Nguyễn Văn C kèm hồ sơ chờ xem xét xử lý; 01 xe mô tô biển kiểm soát 22Y1-051.05; Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Hoàng Văn P; Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Hoàng Văn T; Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô; Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô; Căn cước công dân của Hoàng Văn P và Hoàng Văn T. Ngày 21 tháng 12 năm 2022 đã trả lại cho Lý Thị S, sinh năm 1973, trú tại thôn Ngòi Sen, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (vợ Hoàng Văn P); 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 88C- 175.88 và sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 88R-009.13 ngày 21/12/2022 đã trả lại cho Dư Kiến Q, sinh năm 1982, trú tại khu 10, xã N, huyện P, tỉnh Phú Thọ (Người đại diện theo ủy quyền của Hoàng Huy Q).

Việc trả lại tài sản và các giấy tờ tại giai đoạn điều tra của Công an huyện H là phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với Giấy phép lái xe hạng B2 của Nguyễn Văn C hiện nay đang tạm giữ lưu theo hồ sơ vụ án cần xem xét trả lại cho bị cáo Chín theo đề nghị của bị cáo. Khi bản án có hiệu lực pháp luật Toà án nhân dân huyện H sẽ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện H để thi hành theo quy định.

[6] Về phần trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn C đã bồi thường cho gia đình ông Hoàng Văn P, anh Hoàng Văn T tổng số tiền 560.000.000đ (Năm trăm sáu mươi triệu đồng). Đại diện của gia đình các bị hại xác nhận đã nhận tiền bồi thường, không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự. Hội đồng xét xử không xem xét về phần trách nhiệm dân sự đối với bị cáo trong phần quyết định của bản án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Dư Kiến Q không đề nghị giám định thiệt hại về tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (Năm) năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 24 tháng 5 năm 2023.

Giao bị cáo Nguyễn Văn C cho Uỷ ban nhân dân xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc, nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo” (Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, 92 của Luật thi hành án hình sự)

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn C 01 Giấy phép lái xe số 020041000302; Hạng B2; mang tên Nguyễn Văn C do Sở giao thông vận tải tỉnh Hà Giang cấp ngày 17 tháng 9 năm 2015.

(Khi bản án có hiệu lực pháp luật Toà án nhân dân huyện H sẽ chuyển Giấy phép lái xe cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện H để thi hành án).

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của các bị hại, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về