TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 07/11/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 07 tháng 11 năm 2023 tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Thanh V, tên gọi khác: Lép; sinh ngày 23/01/2004 tại Quảng Trị; nơi c ư trú: thôn P, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh M và bà Lê Thị N; vợ con chưa có; tiền án: không có; tiền sự:
- Ngày 26/11/2022 bị UBND xã U, huyện L, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 19/12/2022.
- Ngày 26/12/2022 bị UBND xã T, huyện L, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong ngày 06/01/2022.
- Ngày 12/01/2023 bị UBND xã T, huyện L, tỉnh Quảng Trị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, chấp hành xong ngày 12/4/2023.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 13/6/2023 cho đến nay; có mặt.
Bị hại:
- Ông Cáp Xuân T, sinh năm 1957 (đã chết), đại diện hợp pháp là bà Lê Thị G, sinh năm 1963 (vợ); anh Cáp Hữu V, sinh năm 1986, anh Cáp Hữu B, sinh năm 1989, anh Cáp Hữu T1, sinh năm 1991 (con ông T) cùng địa chỉ: khu phố H, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; anh Cáp Hữu T1 đại diện theo uỷ quyền của các đại diện hợp pháp, có mặt.
- Anh Trần Nhật T2, sinh năm 2005, trú tại: khu phố B, thị trấn C, huyện L, tỉnh Quảng Trị (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Trần Thanh K và chị Lê Thị T3, trú tại thôn P, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
Người làm chứng:
- Anh Phan Ngọc A, sinh năm 1984; trú tại khu phố N, thị trấn C, huyện L, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.
- Anh Trần Văn Thái Hòa, sinh năm 1996; trú tại khu phố C, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.
- Anh Lê Văn T4, sinh năm 1972, trú tại khu phố H, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 00 ngày 13/4/2023, Trần Thanh V không có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74G1-X chở Trần Nhật T2 lưu thông trên QL9 hướng từ thị trấn C đi xã Cam Hiếu. Đoạn Km 10+730 thôn N, xã H, V điều khiển xe trên phần đường bên phải cách vạch kẻ tâm đường khoảng 01 mét, tốc độ từ 82,9km/h đến 86,2km/h. V giữ nguyên tốc độ và tiếp tục chạy xe bên phần đường bên phải cách tim đường khoảng 01 mét, đến đoạn Km 10+650 QL9, phát hiện phía trước cách khoảng 30 mét, trên phần đường ngược chiều bên trái có xe mô tô (biển kiểm soát 74C1-X do ông Cáp Xuân T điều khiển) chạy sát vạch kẻ tâm đường theo hướng ngược lại rồi chuyển hướng đi chậm từ phần đường bên trái sang phần đường bên phải theo hướng xe của V nhưng không có tín hiệu chuyển hướng. Khi xe của ông T qua bên phần đường bên phải hướng Cam Lộ đi thành phố Đông Hà, cách vạch kẻ tim đường khoảng 01 mét thì xe mô tô của V tông vào phần đầu xe mô tô ông T gây tai nạn. Hậu quả: ông Cáp Xuân T chết tại hiện trường, Trần Thanh V và Trần Nhật T2 bị thương, 02 xe mô tô bị hư hỏng.
Tại Bản kết luận giám định số: 393/KL-KTHS ngày 17/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: Nguyên nhân chết của ông Cáp Xuân T: đa chấn thương.
Tại Bản kết luận giám định số: 148/KLTTCT-TTPY ngày 02/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Trị, kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trần Nhật T2 tại thời điểm giám định là 56%.
Tại Bản kết luận giảm định số: 186/KLTTCT-TTPY ngày 28/6/2023 của Trung tâm pháp y tinh Quảng Trị, kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trần Thanh V tại thời điểm giám định là 71%.
Tại Bản kết luận giám định số: 410/KL-KTHS ngày 20/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị về nồng độ cồn trong máu của ông Cáp Xuân T, kết luận: không tìm thấy Cồn (Ethanol) trong mẫu máu gửi đến giám định.
Kết quả xét nghiệm hóa sinh đối với Trần Thanh V tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị khi đến cấp cứu tối ngày 13/4/2023: định lượng Ethanol (cồn) trong máu là 0.0 mmol/L. Tại hồ sơ bệnh án của Trần Thanh V bệnh viện Trung ương Huế: kết quả xét nghiệm sinh hóa máu của Trần Thanh V ngày 14/4/2023: Ethanol (con) trong máu là 0.0 mmol/L; kết quả xét nghiệm nước tiểu: Morphin (Heroin), Marijuana (THC), Cannabis, Amphetamin âm tính.
Tại Bản kết luận giảm định số 520/KL-KTHS ngày 01/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận:
- Vị trí va chạm giữa xe mô tô biển kiểm soát 74G1-X và xe mô tô biển kiểm soát 74C1-X là: Phần trước bên trái xe mô tô biển kiểm soát 74G1- X gồm các vị trí: bánh trước, dè chắn bùn bánh trước, ốp nhựa mặt nạ đầu xe va chạm với phần trước bên phải xe mô tô biển kiểm soát 74C1-X gồm các vị trí bánh trước, phuộc trước, ốp nhựa mặt nạ đầu xe và cánh mang phải. Tại thời điểm xảy ra va chạm, xe mô tô biển kiểm soát 74G1-X tác động vào xe mô tô biển kiểm soát 74C1-X theo chiều hướng từ trước ra sau, từ phải qua trái trong trạng thái hai phương tiện chuyển động ngược chiều. Xe mô tô biển kiểm soát 74G1-X chuyển động theo hướng từ L đi Đ, xe mô tô biển kiểm soát 74C1-X đang chuyển động theo hướng từ Đ đi L và đang rẽ sang trái.
- Vị trí va chạm đầu tiên giữa xe mô tô biển kiểm soát 74G1-X và xe mô tô biển kiểm soát 74C1-X trên hiện trường là khu vực trước điểm đầu dấu vết đánh số (2) được ghi nhận và mô tả trong hồ sơ khám nghiệm hiện trường, thuộc phần đường có hướng từ L đi Đ.
Tại Bản kết luận giám định số: 497/KL-KTHS ngày 23/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận:
- Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các tập tin video gửi đến giám định.
- Theo hình ảnh trong đoạn video c ó tên “2342418357475720169.mp4” gửi đến giám định thể hiện: Tại thời điểm 20:31:41 ngày 13/4/2023 (thời gian thể hiện trên hình ảnh), xe giống xe mô tô di chuyển trên đường theo hướng từ phải sang trái với vận tốc từ 82,9km/h đến 86,2km/h.
- Không đủ cơ sở để xác định tốc độ phương tiện, đặc điểm phương tiện, người trên phương tiện trong đoạn video có tên “194996X0180616891.mp4” gửi đến giám định.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 11/KL-ĐGTS ngày 09/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cam Lộ, kết luận:
- Trị giá thiệt hại của xe mô tô 74G1-X là: 5.600.000 đồng;
- Trị giá thiệt hại của xe mô tô 74C1-X là: 8.850.000 đồng.
Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:
- 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Wave, BKS 74G1-X;
- 01 xe mô tô hiệu Piaggio, loại Liberty, BKS 74C1-X;
- 02 mũ bảo hiểm; 01 ruột xốp mũ bảo hiểm; 01 vỏ nhựa mũ bảo hiểm; 08 mảnh vỡ nhựa màu trắng; 06 mảnh vỡ nhựa màu đen; 01 mảnh vỡ nhựa màu đen- trắng-bạc; 01 kính chắn gió mũ bảo hiểm; 01 thanh kim loại; 01 áo thun ngắn tay;
01 quần Jean loại ống dài; 01 quần Jean lửng; 01 áo thun ngắn tay;
- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 74000012, biển số đăng ký 74G1-X; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc số 9421681;
- 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số 450950000X, do Sở GTVT Quảng Trị cấp ngày 05/02/2015, cấp cho Cáp Xuân T;
- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035729, biển số đăng ký 74C1-X.
Tại Bản cáo trạng số: 29/CT-VKSCL ngày 04 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đã truy tố bị cáo Trần Thanh V về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Trần Thanh V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;
- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm s, b khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 36 Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Thanh V từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ và không buộc nghĩa vụ khấu trừ thu nhập do bị cáo thương tật, khó khăn trong lao động.
- Tịch thu, tiêu huỷ: mũ, ruột xốp, vỏ nhựa mũ bảo hiểm; các mảnh vỡ nhựa, thanh kim loại, áo, quần thu giữ trong vụ án;
- Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có khiếu nại gì.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trần Thanh V khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện, nội dung lời khai phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có căn cứ khẳng định, ngày 13/4/2023, Trần Thanh V không có giấy phép lái xe hạng A1, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74G1-X chở anh Trần Nhật Tiến lưu thông trên Quốc lộ 9 hướng L đi Đ, đoạn qua Km10+650 thuộc địa phận xã H, cách vạch kẻ tâm đường khoảng 01m với tốc độ 82,9 đến 86,2km/h đã va chạm với xe mô tô 74C1-X của ông Cáp Xuân T chạy ngược chiều, chuyển hướng rẽ trái qua phần đường chiều đi của V. Hậu quả của vụ tai nạn: ông Cáp Xuân T chết, anh Trần Nhật T2 bị tổn thương cơ thể 56%, Trần Thanh V bị tổn thương cơ thể 71%. Lỗi của Trần Thanh V là điều khiển xe mô tô vượt quá tốc độ, không đi xe bên phải trên phần đường đi theo chiều đi của mình, không có giấy phép lái xe theo quy định, vi phạm khoản 9, 11 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ, Điều 7 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ Giao thông vận tải. Với lỗi vi phạm và hậu quả xảy ra, Trần Thanh V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
[3] Đối với hành vi của ông Cáp Xuân T điều khiển xe mô tô chuyển hướng không có tín hiệu báo hướng rẽ, không nhường đường cho xe đi ngược chiều, vi phạm quy định tại khoản 1, 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ. Lỗi của ông T được xác định là nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ tai nạn nhưng ông T chết nên không xem xét xử lý.
[4] Anh Trần Thanh K và chị Lê Thị T3 chủ xe mô tô74G1-X nhưng không giao xe cho Trần Thanh V điều khiển nên không có lỗi.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến sức khoẻ của người khác, cần xử phạt nghiêm khắc.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực tác động để gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại ông Cáp Xuân T cũng có lỗi, bị hại anh Trần Nhật T2 và đại diện hợp pháp của bị hại ông Cáp Xuân T xin giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất khung hình phạt. Thấy rằng, lỗi phần lớn và trực tiếp gây ra vụ tai nạn thuộc về bị hại Cáp Xuân T; bản thân bị cáo cũng bị tổn thương cơ thể đến 71%, khó khăn trong sinh hoạt, lao động; có nơi cư trú rõ ràng, nên cần áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ và không khấu trừ thu nhập là phù hợp, tạo cơ hội cho bị cáo hồi phục sức khỏe, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đại diện hợp pháp của ông Cáp Xuân T thỏa thuận và bồi thường xong, nay không có yêu cầu gì thêm; anh Trần Nhật T2 không yêu cầu.
[7] Về xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C am Lộ đã trả lại cho các chủ sở hữu các vật chứng, đồ vật thu giữ, chuyển giấy chứng nhận đ ăng ký xe mô tô của anh Trần Thanh K đến Đội Cảnh sát giao thông, trật tự Công an huyện C am Lộ để xử lý theo quy định. Vật chứng còn lại gồm: mũ, ruột xốp, vỏ nhựa mũ bảo hiểm; các mảnh nhựa, thanh kim loại, áo quần không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu huỷ.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh V (Lép) phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;
2. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 36 của Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Trần Thanh V 24 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị nhận được quyết định thi hành án; miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo trong thời gian thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Giao Trần Thanh V cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.
3. Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: tịch thu, tiêu huỷ:
- 01 mũ bảo hiểm loại nửa đầu, không rõ nhãn hiệu, sơn màu trắng, kích thước 46x20,5cm, loại cũ đã qua sử dụng, bị nứt vỡ một phần vỏ nhựa; 01 ruột xốp mũ bảo hiểm màu trắng, bên trong bọc vải màu đen; 01 vỏ nhựa mũ bảo hiểm, không rõ nhãn hiệu, sơn màu trắng, bị nứt vỡ thành nhiều phần;
- 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, kích thước 39x34cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, có dán chữ "Wave α", kích thước 27x26cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, mặt trong có in chữ “HONDA", kích thước 27x11cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, có dán chữ “NDA”, kích thước 30,5x17cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, kích thước 56x10cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, có dán chữ "HONDA", kích thước 55x33cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, có dán chữ "HO", kích thước 20x13cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu trắng, kích thước 15,5x10cm;
- 01 mảnh vỡ nhựa màu đen, kích thước 23x20cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu đen, mặt trong có in chữ “HONDA”, kích thước 25x11,5cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu đen-trắng bạc, bên trong có in chữ “ASA”, kích thước 40x15,7cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu đen, kích thước 24,5x7cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu đen, kích thước 32,3x17,5cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu đen, kích thước 24x11cm; 01 mảnh vỡ nhựa màu đen, kích thước 35x11,5cm;
- 01 thanh kim loại sơn màu đen, kích thước 13,8x05cm, hai đầu bị nứt vỡ kim loại;
- 01 áo thun loại ngắn tay vải màu đen; 01 quần Jean loại ống dài vải màu đen, có nhãn hiệu “Denim”, dài 96cm; 01 quần Jean lửng vải màu đen, có nhãn hiệu “AMIRI”, dài 54cm; 01 áo thun loại ngắn tay vải màu đen, có nhãn hiệu “Damao Gabbolce”.
(Các vật chứng, đồ vật nêu trên hiện đang có tại Chi cục Thi hàn h án dân sự huyện Cam Lộ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/10/2023).
4. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Trần Thanh V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại Cáp Xuân T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại Trần Nhật Tiến vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 29/2023/HS-ST
Số hiệu: | 29/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cam Lộ - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về