Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 229/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 229/2023/HS-ST NGÀY 25/05/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở TAND Thành phố B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số : 229/ 2023/ TLST-HS ngày 28/4/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2023/QĐXX-HS ngày 08/5/2023 đối với bị cáo:

- Võ Quốc P, sinh năm 1988 tại H; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Xóm Trường Tiến, xã Thuần Thiện, huyện Can Lộc, tỉnh H; Nơi cư trú: 127 đường Võ Thị Sáu, khu phố Tây A, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Lái xe; Học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Quốc H (Còn sống) và bà Nguyễn Thị T (Còn sống); Có vợ: Bùi Thị H1, sinh năm 1990, có 02 con, con lớn sinh năm 2009 và con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự:

không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

-Bị hại:

+ Đinh Thị P, sinh năm 1986. Trú tại: Tổ 2A, khu phố 1, phường Bửu Long, thành phố B, tỉnh Đ (có đơn xin vắng mặt).

+ Lê Thị T (đã chết).

Người đại diện hợp pháp: Bà Lê Thị H, sinh năm 1959 (mẹ ruột của bị hại). Địa chỉ: Thôn 3, xã Q, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa và Ông F, sinh năm 1973 (chồng của bị hại). Trú tại: Số 9B, khu phố 1, phường Bửu Long, thành phố B, tỉnh Đ (Bà Lê Thị H ủy quyền cho ông F, theo giấy ủy quyền lập ngày 18/01/2022). (Có đơn xin vắng mặt).

Người phiên dịch cho ông F: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1984. Trú tại: 41, khu phố 3A, phường Trảng Dài, thành phố B, tỉnh Đ.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Thương mại vận tải M. Địa chỉ: 518/6 Lê Văn S, phường 11, Quận P, thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Văn N- chức vụ: Giám đốc. Ông N ủy quyền cho bà Trương M, sinh năm 1981. Địa chỉ: 518/6 Lê Văn S, phường 11, Quận P, thành phố H ( có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Võ Quốc P có giấy phép lái xe hạng E, là lái xe của công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải M (hai bên không lập Hợp đồng lao động bằng văn bản).

Khoảng 12 giờ 55 Pt ngày 16/10/2021, P điều khiển xe ô tô biển số 51B-xxxxx (thuộc sở hữu của Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải M) lưu thông trên đường D1 hướng đường Nguyễn Ái Quốc đi quán cơm niêu S.

Khi đến khu vực ngã tư giao nhau giữa đường D1 với đường N4 thuộc khu phố 1, phường Bửu Long, thành phố B, P cho xe ô tô 51B-xxxxx đi thẳng hướng quán cơm niêu S. Lúc này, phía trước tại ngã tư giao nhau có xe mô tô biển số 60F2-xxxxx do chị Đinh Thị P điều khiển chở chị Lê Thị T ngồi sau lưu thông từ hướng chợ Bửu Long đi hướng đường Nguyễn Du. Do P điều khiển xe thiếu chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ nên đã để phía trước đầu xe ô tô 51B-xxxxx va chạm với bệ khung gác chân trước bên phải của xe mô tô 60F2-xxxxx, làm xe mô tô, chị P, chị T ngã xuống đường, xe ô tô tiếp tục đẩy xe mô tô một đoạn 11m60 thì dừng lại. Hậu quả: Chị T bị thương nặng dẫn đến tử vong, chị P bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 64% (Sáu mươi tư phần trăm).

Quá trình điều tra Võ Quốc P khai nhận hành vi phạm tội như trên.

(Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông, biên bản khám nghiệm phương tiện giao thông, bản ảnh hiện trường bút lục số: 37-63, lời khai của bị can bút lục 149-171, lời khai của bị hại Đinh Thị P tại bút lục số 197 -203) Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông ngày 16/10/2021 và Biên bản dựng lại hiện trường tai nạn giao thông 22/12/2021, đã xác định như sau (Tất cả các dấu vết được đo vào vạch thẳng hàng qua ngã tư nối hai đầu mép lề đường bên phải đường N4 theo hướng chợ Bửu Long đi ra đường Nguyễn Du):

(01) là xe ô tô biển số 51B-xxxxx dừng trên đường, đầu xe hướng đi quán cơm niêu S, đuôi xe hướng ra đường Nguyễn Ái Quốc. Trục bánh trước bên phải cách lề đường là 15m05, trục bánh sau bên phải cách lề đường 11m30. Trục bánh sau bên trái cách lề đường là 15m05 và cách điểm mốc 15m10.

(02) là xe mô tô biển số 60F2-xxxxx nằm ngã nghiêng bên dưới gầm trước xe 01, đầu xe quay hướng đường Nguyễn Du, đuôi xe hướng chợ Bửu Long. Trục bánh sau xe 02 cách lề đường 15m60, trục bánh trước cách lề đường là 15m70 và cách trục bánh trước xe (01) là 0m60.

(03) Là vết cày của xe 02 tróc nhựa đứt quãng trên mặt đường hướng từ ngã tư ra quán cơm niêu S đầu vết cách lề đường 4m10, từ đầu vết đến gác chân xe (02) là 11m60.

(Bút lục số: 37-44; 52-59)

* Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 278/TT/2021 ngày 03/11/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ kết luận nguyên nhân tử vong của chị Lê Thị T (sinh năm 1992) do: Đa chấn thương;

- Chấn thương ngực gây dập phổi hai bên, chảy máu khoang ngực; ngập máu khí phế quản;

- Chấn thương sọ não gây nứt sọ thái dương phải, chảy máu màng mềm hai bên bán cầu đại não, tiểu não; dập não thái dương trái; tụ máu dưới màng cứng vùng đáy não trái; dập xuất huyết trong nhu mô đại não.

Nồng độ Ethanol trong máu: 0,26 mg/100ml (bút lục 67-68).

* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0937/TgT/2021 ngày 28/12/2021 của Trung tâm pháp y Đ kết luận chị Đinh Thị P bị thương tích như sau:

- Tổn thương não trán phải kích thước 1,6 x 1,9cm và trán trái 1,9 x 2,9cm. Tỷ lệ: 26%

- Tổn thương nứt sọ chẩm dài 4,5cm; điện não đồ không có ổ tổn thương tương ứng. Tỷ lệ: 11% - Xuất huyết dọc liềm não và lều tiểu não (tụ máu dưới màng cứng) đã điều trị hiện vẫn còn hình ảnh xuất huyết cũ vùng liềm não và lều tiểu não. Tỷ lệ: 16%

- Tổn thương gãy 1/3 giữa hai xương cẳng chân phải, can xấu, trục lệch, ngắn chi dưới 02cm. Tỷ lệ: 21% - Vết biển đổi sắc tố da vùng trán phải kích thước 02x0,5cm; gò má trái kích thước 03x02cm, gò má phải kích thước 02x0,7cm; vùng sống mũi kích thước 1,5x0,8cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo gối trái kích thước 2,8 x1,9cm. Tỷ lệ: 02% - Sẹo gối trái kích thước 0,3 x 0,3cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo gối trái kích thước 01 x 0,5cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo gối trái kích thước 04 x0,3cm. Tỷ lệ: 02% - Sẹo gối trái kích thước 2,5 x 0,2cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo gối trái kích thước 1,4 x 0,7cm. Tỷ lệ: 02% - Sẹo mổ gối phải kích thước 5,5 x0,5cm. Tỷ lệ: 02% - Sẹo mổ 1/3 trên cẳng chân phải kích 2,5 x0,3cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo mổ mặt trước cẳng chân phải kích thước 11x 0,3cm. Tỷ lệ: 02% - Sẹo mổ 1/3 dươi cẳng chân phải kích thước 03 x 0,2cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo mổ dẫn lưu 1/3 trên cẳng chân phải kích thước 0,8 x0,3cm. Tỷ lệ: 01% - Sẹo 1/3 dưới cẳng chân phải kích thước 1,5x0,3cm. Tỷ lệ: 01% - Vết biến đổi sắc tố da gối phải kích thước 1,5 x 01cm. Tỷ lệ: 0,5% Căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ y tế Quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Đinh Thị P áp dụng theo phương pháp cổng tại thông tư là 64% (Sáu mươi tư phần trăm)(bút lục số: 102-105).

* Tại bản Kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 005/GĐHS/2022 ngày 05/01/2022 kết luận nồng độ cồn trong máu của chị Đinh Thị P: 0.0mg/dl (âm tính). (Bút lục 107)

* Tại bản kết luận giám định số 2029/KLGĐ-PC09 ngày 27/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã xác định:

- Hệ thống dấu vết nứt vỡ, trượt xước, mài mòn tại các chi tiết bên phải:

mặt ngoài yếm chắn gió, bệ khung gác chân trước cùng ốp bảo vệ ống xả; bung xúc ốp nhựa thân xe phía sau của xe mô tô biển số: 60F2-xxxxx có chiều hướng từ trước ra sau, từ phải sang trái, hình thành do quá trình va chạm với các chi tiết phía trước đầu xe: góc phải mép dưới cản trước đầu xe, biển số phía trước cùng lưới tản nhiệt; cong vênh biến dạng nắp capo của xe ô tô biển số 51B- xxxxx (điểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện là biển số phía trước của xe ô tô với bệ khung gác chân trước bên phải của xe mô tô).

- Hệ thống dấu vết trượt xước, mài mòn tại các chi tiết bên trái: gương chiếu hậu, tay cầm lái cùng bệ khung gác chân trước của xe mô tô biển số 60F2- xxxxx có chiều hướng dấu vết từ trước ra sau, từ trái sang phải hình thành do quá trình va chạm với mặt đường khi xe ngã (bút lục số: 109-110) * Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 324/TTĐKXCG ngày 24/9/2022 của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới – Sở giao thông vận tải Đ kết luận: không có cơ sở, căn cứ để xác định được vận tốc của xe mô tô 60F2-xxxxx trong vụ tai nạn giao thông đã nêu trong Quyết định trưng cầu giám định số: 2005/QĐ-CSĐT-ĐTTH ngày 01/8/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B.

Quá trình điều tra:

- Võ Quốc P và Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải M (chủ xe) đã bồi thường chi phí mai táng và các khoản chi phí khác cho gia đình bị hại Lê Thị T số tiền 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng) và bồi thường chi phí điều trị cho chị Đinh Thị P số tiền 72.000.000đ (bảy mươi hai triệu đồng). Đại diện hợp pháp của bị hại Lê Thị T và bị hại Đinh Thị P đã làm đơn bãi nại cho bị cáo P (bút lục số: 52-55).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã giao trả: Xe ôtô biển số 51B-xxxxx cho Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải M và trả xe môtô biển số 60F2-xxxxx cho chị Đinh Thị P (bút lục số: 218- 221).

Tại cáo trạng số 235/CT/VKS-HS, ngày 25/4/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Võ Quốc P về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 1 điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa bị cáo trình bày: Bị cáo là nhân viên lái xe cho công ty M được 02 ngày thì xảy ra tai nạn. Giữa bị cáo và công ty không ký hợp đồng và hai bên chỉ thỏa thuận miệng với nhau. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội. Bị cáo không có ý kiến gì về việc truy tố của Viện Kiểm sát. Về dân sự: Bị cáo cùng chủ xe đã bồi thường xong phần dân sự cho bị hại và đã được bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại Đinh Thị P và đại diện bị hại Lê Thị T đã có đơn bãi nại, đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì. Về dân sự Công ty cùng với bị cáo đã khắc phục xong hậu quả cho bị hại và đã nhận lại tài sản là xe ô tô biển số 51B-xxxxx.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Võ Quốc P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt; Không có tiền án, tiền sự; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Trong thời gian tại ngoại không vi phạm chính sách pháp luật tại địa phương; Tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả và được đại diện gia đình bị hại Lê Thị T và chị Đinh Thị P làm đơn bãi nại và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên đề nghị Hội đồng xét xử không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội.

Xét về lỗi trong vụ án: Trong vụ án này bị hại Đinh Thị P điều khiển xe mô tô biển số 60F2-xxxxx chở bị hại Lê Thị T đến nơi giao nhau không nhường đường cho xe đi đến từ bên phải nên có một phần lỗi nhưng không phải nguyên nhân chính gây ra vụ tai nạn và đã bị Công an thành phố B ra quyết định xử phạt hành chính.

- Về mức hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cho bị cáo.

- Về dân sự và xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả giám định và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, khoảng 12 giờ 55 Pt ngày 16/10/2021, tại ngã tư giao nhau giữa đường D1 với đường N4 thuộc khu phố 1, phường Bửu Long, thành phố B, tỉnh Đ, Võ Quốc P có hành vi điều khiển xe ô tô biển số 51B-xxxxx thiếu chú ý quan sát và không giảm tốc độ khi đến nơi giao nhau nên để phần đầu bên phải xe ô tô va chạm vào bệ khung gác chân trước bên phải của xe mô tô 60F2-xxxxx do chị Đinh Thị P điều khiển chở chị Lê Thị T (ngồi sau) gây tai nạn. Hậu quả: Chị T bị thương nặng dẫn đến tử vong, chị P bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 64% (Sáu mươi tư phần trăm).

[3] Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 23 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ, khoản 3 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tại, làm chết 01 người, làm 01 người bị thương với tỷ lệ 64% (Sáu mươi tư phần trăm).

Điều 8 khoản 23 Luật giao thông đường bộ quy định: Các hành vi bị nghiêm cấm.

Hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

Điều 5 khoản 3 Thông tư 31 quy định các trường hợp phải giảm tốc độ. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ phải giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn trong các trường hợp sau:

“…Qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức…”. Từ những nhận định nêu trên có căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, vi phạm quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã vi phạm Luật giao thông đường bộ, không những là 01 phần nguyên nhân gây ra cái chết cho chị T và gây thương tích cho chị P mà còn gây mất trật tự trị an giao thông đường bộ nên cần có mức án đủ nghiêm cho bị cáo.

[5] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thì thấy: Nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn là lỗi do bị cáo khi tham gia giao thông cho xe qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức không giảm tốc độ để đảm bảo an toàn. Trong vụ án này bị hại Đinh Thị P điều khiển xe mô tô biển số 60F2- xxxxx chở bị hại Lê Thị T đến nơi giao nhau không nhường đường cho xe đi đến từ bên phải nên có một phần lỗi nhưng không phải là nguyên nhân chính gây ra vụ tai nạn nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã xử phạt hành chính đối với bị hại Đinh Thị P. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại và được bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và trong thời gian tại ngoại chấp hành tố chính sách pháp luật tại địa phương. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự; Các Điều 2, 3, 4, 5 và 6 của Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết 01 năm 2022 sửa đổi bổ sung 01 số điều của Nghị quyết 02 năm 2018;

Xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội và cho bị cáo hưởng án treo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự và xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phù hợp với nhận định nêu trên nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Các điều 2, 3, 4, 5 và 6 của Nghị Quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

- Tuyên bố bị cáo: Võ Quốc P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Xử phạt bị cáo Võ Quốc P 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án (ngày 25/5/2023).

Giao bị cáo Võ Quốc P cho Ủy ban nhân dân phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương theo dõi, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Ủy ban nhân dân phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương có trách nhiệm thông báo ngay cho Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ để Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày. Người có mặt kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 229/2023/HS-ST

Số hiệu:229/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về