Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 22/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 28-9-2022 tại TAND huyện S, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2022/TLST-HS ngày 13-9-2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HS ngày 13-9-2022 của TAND huyện S và quyết định thay đổi kiểm sát viên số 02/QĐ-VKS-HS ngày 16-9-2022 của VKSND huyện S đối với bị cáo:

Nguyn Dương Th, sinh năm 1983; tại Phú Yên; Nơi cư trú: Thôn Phú Khê 2, xã Hòa Xuân Đông, thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Lái xe ô tô hạng FC; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Trọng Th1, sinh năm 1960 và bà Hồ Thị Ph, sinh năm 1959; vợ Huỳnh Thị H, sinh năm 1984 và 03 con, lớn nhất sinh năm 2X, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 35/2015/HSST ngày 21-9-2015, bị TAND huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên áp dụng khoản 3 Điều 202 BLHS năm 1999 xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, đã chấp hành xong ngày 01-12-2016.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

* Bị hại:

1- Ông Trần Tr, sinh năm 1948, nơi cư trú: Thôn 2/4, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên (đã chết).

Đại diện hợp pháp cho ông Tr là chị Trần Thị H (con gái ông Tr), sinh năm 1991, nơi cư trú: Thôn 2/4, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

2- Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1951, nơi cư trú: Thôn 2/4, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên (vợ ông Tr). Có mặt.

3- Cháu Phan Linh Ch, sinh năm 2016, nơi cư trú: Thôn 2/4, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên (cháu ông Tr). Có mặt.

Đại diện hợp pháp cho cháu Ch là chị Trần Thị L (mẹ đẻ cháu Ch), sinh năm 1987, nơi cư trú: Thôn 2/4, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

* Bị đơn dân sự:

Công ty trách nhiệm hữu hạn Lê Trương P do ông Lê Minh D, sinh năm 1977, nơi cư trú: Tổ 40, Phường H, Quận C, thành phố Đà Nẵng đại diện công ty. Vắng mặt (có đơn đề nghị xử vắng mặt).

*Người làm chứng:

Ông Hoàng Tiến N, sinh năm 1963, nơi cư trú: Buôn Trinh, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 23-3-2022, Thủ đã có giấy phép lái xe hạng FC, điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 47C-X.74, kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 47R- X.49 (do Công ty TNHH Lê Trương P đứng tên chủ sở hữu) lưu hành từ tỉnh Đăk Lăk đi thành phố Tuy Hòa (hướng Tây- Đông). Đến khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, Thủ điều khiển xe ô tô đi đến km 96+843, đoạn đường vòng, dốc, Quốc lộ 29 thuộc buôn Trinh, xã Ea Bar, huyện S thấy phía trước có xe mô tô đang lưu hành cùng chiều, Thủ điều khiển xe ô tô lấn sang phần đường của xe lưu hành ngược chiều để vượt lên phía trước nên đã gây tai nạn với xe mô tô biển kiểm soát 78R1- X1 do ông Trần Tr (không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển chở bà Nguyễn Thị C và cháu Phan Linh Ch ngồi sau đang lưu hành ngược chiều. Hậu quả, làm ông Trần Tr chết trên đường đưa đi cấp cứu, bà C và cháu Ch bị thương được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên điều trị, xe mô tô hư hỏng nhẹ.

Tại bản kết luận giám định số 63/TgT ngày 21-4-2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Ông Trần Tr chết do chấn thương sọ não, nồng độ cồn trong máu là 45.82 mg/100ml.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 141/TgT ngày 14-5-2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Bà Nguyễn Thị C bị thương tích khuyết sọ trái 20%, tổn thương não 11%, xuất huyết dưới 09%, tổn thương phần mềm 08% (trong đó: Sẹo thái dương đỉnh phải 02%, sẹo thái dương đỉnh trái 02%, sẹo trán đỉnh 02% và sẹo gối trái 02%), Gãy xương chính mũi 08%. Tổng thương tích 46%.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 140/TgT ngày 13-5-2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Cháu Phan Linh Ch bị thương tích tụ máu ngoài màng cứng, tỷ lệ thương tích 05%.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐGTS, ngày 25-5-2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên huyện S kết luận: Xe mô tô biển kiểm soát 78R1-X1 bị hư hỏng trị giá 900.000đ (chín trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra, Nguyễn Dương Th thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, bị cáo và công ty đã bồi thường khắc phục toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu, được các bị hại và đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Vật chứng vụ án: 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 47C-X.74, kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 47R-X.49 của Công ty TNHH Lê Trương P và xe mô tô biển kiểm soát 78R1- X1 và 01 mũ bảo hiểm của ông Trần Tr. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe ô tô cho Công ty TNHH Lê Trương P; xe mô tô và mũ cho chị Trần Thị H là đại diện hợp pháp bị hại ông Trần Tr.

Về dân sự: Bị cáo và Công ty TNHH Lê Trương P đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho đại diện bị hại ông Trần Tr và các bị hại chị Nguyễn Thị C, cháu Phan Linh Ch với tổng số tiền 220.000.000đ (hai trăm hai mươi triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 12-9-2022 của VKSND huyện S, tỉnh Phú Yên đã truy tố bị cáo Nguyễn Dương Th về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS2015.

Tại phiên tòa:

* Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã truy tố, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường đủ theo yêu cầu của chị H, bà C, chị L là 220.000.000đ và được gia đình chị H, bà C, chị L có đơn xin bãi nại và đề nghị không khởi tố vụ án.

* Ý kiến của những người bị hại: Theo đơn yêu cầu bồi thường, các hóa đơn, chứng từ kèm theo, các biên bản ghi lời khai, giấy bãi nại và tại phiên tòa trình bày:

1. Ông Trần Tr (chồng bà C) chết, chị H (con ông Tr) đại diện yêu cầu bồi thường:

Chi phí tiền xe, mai táng, ngày đổ mả, cúng tuần, tổn thất tinh thần. Tổng cộng 150.000.000đ, đã có đơn xin bãi nại. Tại phiên tòa, chị H không yêu cầu gì thêm, về hình phạt đề nghị tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

2. Bà C, bị thương tích 46%, đã nhận tiền bồi thường 50.000.000đ. Đã có đơn bãi nại, tại tòa không yêu cầu bồi thường gì thêm, về hình phạt đề nghị tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị xử 01 (một) năm tù.

3. Chị L (mẹ cháu Ch) bị thương tích 05%, đã nhận tiền bồi thường 20.000.000đ. Đã có đơn bãi nại, tại tòa không yêu cầu bồi thường gì thêm, về hình phạt đề nghị tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Ý kiến của bị đơn dân sự: Vắng mặt, có đơn xin đề nghị xử vắng mặt, theo các tài liệu có trong hồ sơ, Anh D đại diện Công ty TNHH Lê Trương P trình bày: Sau khi xảy ra vụ tai nạn, anh đã chủ động cùng bị cáo, gia đình chu đáo lo hậu sự cho ông Tr , thương tích cho bà C, cháu Ch và đã thống nhất bồi thường tổng cộng 220.000.000đ, được gia đình, các bị hại đã có đơn xin bãi nại và hứa không yêu cầu, khiếu nại gì. Nhờ tòa xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn Dương Th phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Đề nghị: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Dương Th từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Đề nghị miễn hình phạt bổ sung vì hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nghề nghiệp chính là lái xe.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 589; Điều 590 và Điều 591 BLDS;

1. Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho ông Trong, bà Nguyễn Thị C và cháu Phan Linh Ch, theo đó bị cáo đã bồi thường cho ông Trong, bà Nguyễn Thị C và cháu Phan Linh Ch 220.000.000đ (trong đó tiền xe 900.000đ, tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng cho ông Tr 150.000.000đ; bồi thường thiệt hại về thương tích cho bà C 50.000.000đ và bồi thường thiệt hại về thương tích cho cháu Ch 20.000.000đ). Như vậy, phần bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ông Trong, bà Của, cháu Chi đã thi hành xong.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 47C-X.74, kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 47R-X.49 của Công ty TNHH Lê Trương P; xe mô tô biển kiểm soát 78R1- X1 và 01 mũ bảo hiểm của ông Trần Tr. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe ô tô cho công ty TNHH Lê Trương P; xe mô tô và mũ cho ông Trần Tr do chị H nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, Điều tra viên, VKSND huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục tố tụng về thu thập tài liệu, chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, những người bị hại, bị đơn dân sự, người làm chứng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

* Bị đơn dân sự (anh D), người làm chứng (anh N) vắng mặt tại phiên tòa, nhưng việc vắng mặt đều được tống đạt hợp lệ và anh D đã có đơn đề nghị xử vắng mặt và không ảnh hưởng gì về thủ tục tố tụng, nên HĐXX quyết định tiếp tục xét xử.

[2] Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của những người bị hại, bị đơn dân sự, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, biên bản khám nghiệm hiện trường, 37 ảnh ghi lại hình ảnh vụ tai nạn, kết luận giám định thương tích và kết luận định gía tài sản, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 15h20 ngày 23-3-2022, Nguyễn Dương Th đã có hành vi điều khiển xe ô tô tải biển số 47C-X.73, kéo theo rơ mooc biển số 47R-X.49 do Công ty TNHH Lê Trương P đứng tên chủ sở hữu, lưu hành trên đường QL29, khi đến km 96 + 843 thuộc buôn Trinh, xã EaBar, huyện S, Thủ thấy phía trước có xe mô tô đang lưu hành cùng chiều, Thủ điều khiển xe lấn sang phần đường xe ngược chiều tông vào xe mô tô biển số 78R1-X1 làm ông Trần Tr chết tại chỗ, bà Của ngồi trên xe ông Trong bị thương tích 46%, cháu Chi cũng ngồi trên xe ông Trong bị thương tích 05% và xe mô tô 78R1-X1 bị thiệt hại 900.000đ. Như vậy, hành vi của Nguyễn Dương Th đã vi phạm vào khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ, gây thiệt hại 01 người chết, 2 người bị thương đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 BLHS như cáo trạng của VKSND huyện S, tỉnh Phú Yên đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm a khoản 1 Điều 260 BLHS quy định: 1. Người nào tham gia giao thông mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đ đến 100.000.000 đ, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

Điểm a: Làm chết người.

[3] Tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác (01 người chết, 02 người bị thương (46% và 05%)) và thiệt hại về tài sản), lỗi gây ra tai nạn hoàn toàn do bị cáo, nên cần phải xử lý nghiêm, không thể cho bị cáo hưởng án treo như yêu cầu của những người bị hại (chị Hiếu, bà Của, chị Lành) đề nghị, mà phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như Kiểm sát viên đề nghị mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng chống tội phạm nói chung.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Không.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu (số tiền 220.000.000đ). Tại tòa, bà C yêu cầu xử bị cáo 01 năm tù, bị hại đã có đơn bãi nại. Theo hồ sơ, các bị hại có đơn đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự, nên HĐXX cần xem xét khi lượng hình.

*Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật, ngoài hình phạt tù, bị cáo còn bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề lái xe ô tô từ 01 năm đến 05 năm. Xét bị cáo là lao động duy nhất, phải vay mượn tiền để bồi thường thiệt hại, chấp nhận đề nghị của kiểm sát viên tại tòa không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho ông Trong, bà Nguyễn Thị C và cháu Phan Linh Ch, theo đó bị cáo đã bồi thường cho ông Trong, bà Nguyễn Thị C và cháu Phan Linh Ch 220.000.000đ (trong đó tiền xe 900.000đ, tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng cho ông Tr 150.000. 000đ; bồi thường thiệt hại về thương tích cho bà C 50.000.000đ và bồi thường thiệt hại về thương tích cho cháu Ch 20.000.000đ). Như vậy, phần bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ông Tr, bà C và cháu Ch đã thi hành xong.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS: 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 47C-X.74, kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 47R-X.49 của Công ty TNHH Lê Trương P; xe mô tô biển kiểm soát 78R1- X1 và 01 mũ bảo hiểm của ông Trần Tr. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe ô tô cho công ty TNHH Lê Trương P; xe mô tô và mũ cho chị Trần Thị H là đại diện hợp pháp bị hại ông Trần Tr đã xử lý đúng quy định.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Dương Th phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

[2] Về điều luật áp dụng và hình phạt: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Dương Th 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

*Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì hoàn cảnh gia đình khó khăn.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 589; Điều 590; Điều 591 Bộ luật dân sự:

Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho người bị hại, theo đó bị cáo đã bồi thường cho ông Trần Tr, bà Nguyễn Thị C và cháu Phan Linh Ch 220.000.000đ (trong đó tiền xe 900.000đ, tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng cho ông Tr 150.000.000đ; bồi thường thiệt hại về thương tích cho bà C 50.000.000đ và bồi thường thiệt hại về thương tích cho cháu Ch 20.000.000đ). Đã thi hành xong.

[4] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Dương Th phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, những người bị hại, đại diện bị hại, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 22/2022/HS-ST

Số hiệu:22/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về