TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 05 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2021/TLST- HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/HSST-HQĐ ngày 02 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ tên: Vũ Huy H - sinh năm 1983 tại: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm Đ, xã C, huyện T, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Thanh T và bà Cao Thị L (đã chết); có vợ Lại Thị L1 (đã ly hôn) và 03 con; tiền án: Ngày 24-4-2020 bị Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; tiền sự:
Không; bị cáo được Công an thành phố Nam Định áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15-12-2020; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Đặng Việt M, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1955; cùng nơi cư trú: Xóm 22, xã H, huyện T, tỉnh Nam Định. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Anh Trần Đăng T1, sinh năm 1993; nơi cư trú: Số 237 đường K, phường V, thành phố Đ, tỉnh Nam Định (không triệu tập tới phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Huy H (có giấy phép lái xe ô tô hạng B2) là lái xe của Công ty Đ, địa chỉ: Số 247 đường T, phường Q, thành phố Đ từ tháng 7/2020.
Do xe ô tô của công ty đã đi chở hàng hết nên khoảng 15 giờ ngày 31-8- 2020, chị Phạm Thị Thu H2, sinh năm 1980, nơi cư trú: Số 247 đường T, phường Q, thành phố Đ (Chị H2 là Phó giám đốc Công ty Đ) đã gọi điện cho anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1984, nơi cư trú: Số 24 đường D, phường K, thành phố Đ hỏi mượn một xe ô tô tải nhãn hiệu KIA, màu trắng, biển kiểm soát: 18C- 110.09, trọng tải 1000kg để cho H đi chở hàng, anh C đồng ý.
Khoảng 16 giờ cùng ngày, sau khi mượn được xe ô tô, H điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát: 18C-110.09 về công ty để xếp hàng lên xe. Sau khi xếp hàng xong, H điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát: 18C-110.09 chở C1, sinh năm 1998, nơi cư trú: Số 8/587 đường T, phường H, thành phố Đ (Anh C1 là nhân viên bốc vác của công ty Đ) ngồi tại ghế phụ bên phải xe ô tô đi từ công ty đến ngã tư Đ, xã H, huyện B, tỉnh Nam Định để giao hàng cho khách.
Đến khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày, sau khi giao hàng cho khách xong, H điều khiển xe ô tô biển kiểm soát: 18C-110.09 chở anh C1 đi trên đường L, phường X, thành phố Đ theo hướng từ huyện Vụ Bản đến Quốc lộ 10 để về công ty trong điều kiện đường L là đường trải nhựa bằng phẳng, có vạch sơn đứt đoạn để phân chia thành hai làn đường, mặt đường khô ráo, trời sáng, không mưa, tầm nhìn không bị hạn chế. H điều khiển xe ô tô tải đi tại làn đường bên phải theo hướng H đi, cách mép đường bên phải khoảng 40cm, với tốc độ khoảng 40km/h. Khi xe ô tô do H điều khiển đi đến khu vực trước cửa số nhà 1228 đường L, phường X, thành phố Đ thì H quan sát thấy một xe mô tô biển kiểm soát: 18P2-7551 do ông Đặng Việt M điều khiển chở sau cháu nội là Đặng Hoàng T2, sinh năm 2012 và vợ là bà Nguyễn Thị H1 đang đi cùng chiều phía trước, cách xe ô tô tải do H điều khiển khoảng 05-07m, cách mép đường bên phải khoảng 01m, với tốc độ khoảng 35km/h. Lúc này, do có ý định vượt xe mô tô do ông M điều khiển nên H đã bấm còi báo hiệu, bật đèn xi nhan xin chuyển hướng sang bên trái và đánh lái xe ô tô chếch chéo sang bên trái, lấn sang làn đường bên trái khoảng 50cm rồi tăng tốc xe ô tô lên khoảng 45km/h, trong khi ông M vẫn tiếp tục điểu khiển xe đi thẳng về phía trước. Trong quá trình vượt xe mô tô do ông M điều khiển, H chỉ tập trung quan sát phía trước mà không quan sát gương chiếu hậu bên phải để xem xe ô tô do H điều khiển đã vượt qua chiếc xe mô tô do ông M điều khiển hay chưa. Khi đầu xe ô tô do H điều khiển vượt qua xe mô tô ông M điều khiển khoảng 01m, H nghĩ rằng xe ô tô do mình điều khiển đã vượt qua xe mô tô do ông M điều khiển nên H đánh lái sang phải để đi về phía làn đường bên phải của mình, lúc này phần thành của thùng bên phải xe ô tô biển kiểm soát: 18C-110.09 đã va quệt với mặt ngoài đầu mỏm ốp cao su cao su tay lái, mặt ngoài ốp nhựa gương chiếu hậu bên trái xe mô tô biển kiểm soát: 18P2-7551 do ông M điều khiển làm xe mô tô, ông M, bà H1 và cháu T2 bị đổ, ngã trên mặt đường. Ngay sau khi va chạm, H đã dừng xe lại cùng anh C1 gọi xe cứu thương đưa ông M, bà H1, cháu T2 đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định để cấp cứu trong tình trạng bà H1 bị sưng nề vùng trán trái, thái dương trái, dập não, máu tụ dưới màng cứng bán cầu phải; ông M bị sưng nề xây sát vùng mặt, cổ tay hai bên, xuất huyết dưới nhện còn cháu T2 bị xây xát nhẹ. Bà H1 sau đó được đưa đến Bệnh viện hữu nghị Việt Đức, thành phố Hà Nội để điều trị.
Sau khi xảy ra vụ tai nạn giao thông, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã chủ trì phối hợp với các ngành hữu quan tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám phương tiện theo quy định, đồng thời lấy lời khai của Vũ Huy H, người làm chứng, bị hại, thu giữ các đoạn video ghi lại vụ việc.
Tại hiện trường, ở chiều đường bên phải theo hướng đi của H phát hiện hai vết cày không liên tục, đứt đoạn, có chiều từ phía huyện Vụ Bản về đường Quốc lộ 10, xe mô tô biển kiểm soát: 18P2 – 7551 đổ ngả trái và xe ô tô biển kiểm soát: 18C – 11009 dừng tại sát mép đường.
Tiến hành khám xe xác định: Tại mặt ngoài thành thùng bên phải xe ô tô biển kiểm soát: 18C-110.09 có vết trượt chùi sạch bụi đất, xước mặt thùng xe, để lại vết màu đen có chiều từ trước về sau. Trên xe mô tô biển kiểm soát: 18P- 7551, tại đầu mỏm tay lái và mặt ngoài ốp nhựa gương chiếu hậu bên trái có vết trượt làm xước bề mặt có chiều từ sau về trước.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 248/20/TgT ngày 29-10-2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của ông M là 12%, cơ chế hình thành vết thương: Vùng đầu va đập với vật cứng gây thương tích.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 260A/20/TgT ngày 16-11-2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Nam Định kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của bà H1 là 71%, cơ chế hình thành vết thương: Vùng đầu va đập với vật cứng gây thương tích.
Tại Bản kết luận giám định số 1027/KL-PC09 ngày 03-10-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Tốc độ của xe ô tô tải biển kiểm soát: 18C – 110.09 xuất hiện trong đoạn video tại thời điểm 17 giờ 15 phút 13 giây là 48,6km/h (+ - 2km).
Tại Bản kết luận giám định số 1143/KL-PC09 ngày 24-11-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Tốc độ của xe mô tô tải biển kiểm soát: 18P2 – 7551 xuất hiện trong đoạn video tại thời điểm 17 giờ 15 phút 13 giây là 41,8km/h (+ - 1,7km).
Sau khi củng cố tài liệu, chứng cứ, ngày 30-11-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Vũ Huy H. Do H đã bỏ đi khỏi địa phương nên ngày 01-12-2020, cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã bị can đối với Vũ Huy H. Đến ngày 15-12-2020, H ra đầu thú tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định và khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.
Trong quá trình điều tra, Vũ Huy H đã đến thăm hỏi, bồi thường cho ông M, bà H1 tổng số tiền là 27.000.000 đồng. Ông M và bà H1 đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bồi thường gì thêm, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho Hiểu.
Đối với chiếc xe ô tô biển kiểm soát: 18C-110.09 được xác định thuộc sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Văn C nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe ô tô trên cho anh C. Còn chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 18P2-7551 được xác định thuộc sở hữu hợp pháp của ông Đặng Việt M nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông M.
Bản cáo trạng số 51/CT-VKS-TPNĐ ngày 02-02-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Vũ Huy H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm c khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Vũ Huy H khai nhận hành vi điều khiển xe ô tô biển kiểm soát: 18C-110.09 vượt xe mô tô biển kiểm soát: 18P2-7551 do ông Đặng Việt M điều khiển cùng chiều trong điều kiện không đảm bảo an toàn gây tai nạn cho ông Đặng Việt M và bà Nguyễn Thị H1 như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Vũ Huy H tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Huy H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Vũ Huy H từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo Vũ Huy H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Huy H, bị hại là ông Đặng Việt M và bà Nguyễn Thị H1 không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Huy H phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định:
Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 31-8-2020, Vũ Huy H điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát: 18C-110.09 đi trên đường L, phường X, thành phố Đ theo hướng từ huyện Vụ Bản về đường Quốc lộ 10. Khi đến khu vực trước cửa số nhà 1228 đường L, phường X, thành phố Đ, H đã không chú ý quan sát, vượt xe trong điều kiện không đảm bảo an toàn. Vì vậy, xe ô tô biển kiểm soát: 18C- 110.09 đã va chạm với xe mô tô biển kiểm soát: 18P2 -7551 do ông M điều khiển làm ông M, bà H1 ngã ra đường. Ông M bị thương tích với tỷ lệ là 12%, bà H1 bị thương tích với tỷ lệ là 71%.
Hành vi trên của Vũ Huy H đã vi phạm khoản 23 Điều 8; khoản 2, khoản 5 Điều 14 Luật giao thông đường bộ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng đã vô ý xâm phạm đến các quy định về tham gia giao thông đường bộ, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Vũ Huy H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tự nguyện khắc phục toàn bộ chi phí bồi thường dân sự; người bị hại có đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; gia đình bị cáo có công với cách mạng; bị cáo ốm đau bệnh tật nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích. Tuy nhiên, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội do vô ý nên bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét thấy bị cáo Vũ Huy H được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ nhưng không thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về phần trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo Vũ Huy H đã tự nguyện thoả thuận bồi thường thiệt hại cho bị hại là ông Đặng Việt M và bà Nguyễn Thị H1. Hiện tại các bên xác định phần bồi thường dân sự đã giải quyết xong, không có yêu cầu nào khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Huy H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Vũ Huy H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Vũ Huy H 06 (sáu) tháng tù.
Tổng hợp với phần hình phạt chưa thi hành của bản án số 20/2020/HS-ST ngày 24-4-2020 của Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định như sau: Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xử phạt bị cáo Vũ Huy H 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, được khấu trừ thời gian tạm giữ trước khi xét xử sơ thẩm chuyển đổi thành 27 (hai mươi bảy) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ từ ngày 23-6-2020 đến thời điểm phạm tội mới ngày 31-8-2020 là 02 (hai) tháng 08 (tám) ngày. Phần hình phạt bị cáo chưa thi hành là 11 (mười một) tháng 25 (hai mươi lăm) ngày cải tạo không giam giữ; chuyển đổi thành 03 (ba) tháng 28 (hai mươi tám) ngày tù.
Buộc bị cáo Vũ Huy H phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 09 (chín) tháng 28 (hai mươi tám) ngày tù.
Thời hạn tù của bị cáo Vũ Huy H tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.
2. Án phí:
- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
Bị cáo Vũ Huy H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Vũ Huy H được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Bị hại là ông Đặng Việt M và bà Nguyễn Thị H1 (vắng mặt) được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 21/2021/HS-ST
Số hiệu: | 21/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về