TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 08/04/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 08 tháng 3 năm 2024, tại 02 điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long và điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh. Tòa án nhân dân huyện Càng Long mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2024/HSST, ngày 11 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-HS, ngày 25 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Phan Hoài L, sinh ngày 02 tháng 10 năm 1999. Nơi cư trú: Số B, ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1971 và bà Phan Thị Bé T, sinh năm 1973; Vợ: Huỳnh Thị S, sinh năm 2004; Con: 02 (Hai) người lớn nhất sinh ngày 14 tháng 6 năm 2022 và nhỏ nhất sinh ngày 01 tháng 3 năm 2024; Tiền án; Tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam từ ngày 06/12/2023 đến ngày 08/01/2024 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh).
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phan Hoài L:
1. Bà Trần Hoàng Q - Luật sư của Văn phòng L1 - Chi nhánh T3 thuộc đoàn luật sư thành phố C (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
2. Ông Huỳnh Duy K - Luật sư của Văn phòng L1 tại huyện C thuộc đoàn luật sư thành phố C (Có mặt tại điểm cầu thành phần Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh).
Bị hại: Bà Phạm Thị Út E, sinh năm 1967 (đã chết);
Nơi cư trú trước khi chết: ấp G, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện hợp pháp cho bị hại Phạm Thị Út E:
1. Ông Lê Thanh B, sinh năm 1965 (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
2. Anh Lê Thành T1, sinh năm 1996 (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
Đồng địa chỉ: ấp G, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
3. Chị Lê Bảo T2, sinh năm 1993 (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
Nơi cư trú: ấp K, xã S, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1971 (Có mặt tại điểm cầu thành phần Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh).
Nơi cư trú: Số B, ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.
- Người làm chứng:
1. Ông Phạm Văn D, sinh năm 1964 (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
2. Ông Ngô Văn H1, sinh năm 1971 (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
Đồng địa chỉ: ấp G, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 04 giờ 20 phút, ngày 14 tháng 10 năm 2023, bị cáo Nguyễn Phan Hoài L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 71B4-455xx (phía sau yên xe có buộc cố định 01 giá đèo hàng bằng kim loại nằm ngang) chở theo 50 con vịt để giao đến huyện T, tỉnh Trà Vinh. Đến khoảng 05 giờ 10 phút cùng ngày, bị cáo lưu thông trên Đường H hướng huyện C đi huyện T đến địa phận thuộc ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh thì va quẹt vào bị hại Phạm Thị Út E đang đi bộ tập thể dục cùng chiều phía trước (theo hướng đi của xe mô tô do bị cáo điều khiển). Tai nạn xảy ra làm bị hại ngã xuống lộ nhựa bị thương nặng được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh T cấp cứu. Sau đó được chuyển đến Bệnh viện C - Thành phố Hồ Chí Minh điều trị. Đến ngày 15 tháng 10 năm 2023 bị hại Phạm Thị Út E tử vong.
Sau khi tai nạn xảy ra Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám phương tiện và khám nghiệm tử thi. Đồng thời, kiểm tra nồng độ cồn của những người tham gia giao thông. Kết quả kiểm tra: Bị cáo L là 0,00 miligam/1 lít khí thở và bị hại Phạm Thị Út E là 0,00 miligam/1 lít khí thở. Kết quả kiểm tra ma túy: bị cáo L âm tính với ma túy.
Kết quả khám nghiệm hiện trường ghi nhận: Hiện trường xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, mặt đường được rải nhựa bằng phẳng, có vạch kẻ tim đường, màu vàng, nét đứt, phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt. Mặt đường rộng 5 (Năm) mét, làn đường bên phải hướng huyện T, tỉnh Trà Vinh đi huyện C, tỉnh Trà Vinh rộng 2,7 mét.
Lấy cột điện số 04 làm điểm méc cố định hiện trường. Chọn đường bên phải hướng huyện T đi huyện C làm chuẩn. Tất cả số liệu đo vào mép đường chuẩn.
Số (1): Vị trí người đi bộ sau khi tai nạn, bị hại ngã nằm ngửa trên mặt lộ nhựa, đầu quay về hướng Tây - N, chân quay về hướng Đông - B. Từ đỉnh đầu đo đến mép đường chuẩn là 3,6 mét, đo đến điểm mốc là 24,5 mét.
Số (2): Vị trí xe mô tô mang biển kiểm soát 71B4 - 455xx sau tai nạn, xe không ngã. Đỗ phía trong lề phải hướng huyện T đi huyện C. Đầu xe quay về hướng N, đuôi xe quay về hướng Bắc. Hình chiếu tâm trục bánh trước đo đến mép đường chuẩn là 2,3 mét. Hình chiếu tâm trục bánh sau đo đến mép đường chuẩn là 1,45 mét. Đo đến đỉnh đầu người đi bộ là 5,4 mét. Do đến điểm mốc là 25,5 mét.
Kết quả khám phương tiện: Xe mô tô biển kiểm soát 71B4 - 455xx không để lại dấu vết. Phía sau yên xe có buộc cố định 01 giá đèo hàng bằng kim loại nằm ngang. Giá đèo hàng có chiều dài 1,2 mét, chiều rộng 0,36 mét. Từ yên xe đo ra bên phải dài 0,44 mét, đo ra bên trái dài 0,47 mét. Khoảng cách từ giá đèo hàng đến mặt đất 0,84 mét.
Tại bản kết luận lỗi: Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn giao thông đường bộ là do bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 71B4 - 455xx tham gia giao thông không chú ý quan sát dẫn đến tai nạn giao thông (được diễn dẫn theo điểm b, khoản 7, Điều 6 Nghị định 100/CP/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ được sửa đổi bổ sung Nghị Định 123/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 của Chính phủ về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt), vi phạm điểm e, khoản 3, Điều 30 Luật giao thông đường bộ năm 2008.
Ngoài ra, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 71B4 - 455xx tham gia giao thông xếp hàng hóa trên xe vượt quá giới hạn quy định vi phạm điểm k, khoản 3, Điều 6 Nghị định 100/CP/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ được sửa đổi bổ sung Nghị Định 123/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 của Chính phủ về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Đối với bị hại Phạm Thị Út E đi bộ không sát mép đường vi phạm khoản 1, Điều 32 Luật giao thông đường bộ năm 2008, tuy nhiên đây chỉ là lỗi góp phần dẫn đến tai nạn giao thông.
Vùng va chạm giữa xe mô tô biển kiểm soát 71B4 - 455xx do bị cáo điều khiển với bị hại trong vụ tai nạn giao thông là phần đường bên phải hướng đi của xe mô tô do bị cáo điều khiển (hướng từ huyện C đi huyện T trên Đường H), tâm vùng va chạm cách mép đường chuẩn là 3,75 mét, cách vị trí bị hại té ngã số (1) là 3,9 mét, cách tim lộ là 01 mét.
Ngày 15/10/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ra quyết định trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định tử thi số: 765/KLGĐTT-KTHS, ngày 20/10/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh T kết luận: Qua giám định tử thi Phạm Thị Út E, căn cứ vào tổn thương trên đại thể, đưa đến kết luận: Nguyên nhân chính dẫn đến tử vong là do chấn thương sọ não nặng.
Tại bản cáo trạng số: 13/CT-VKS - HS, ngày 08 tháng 3 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Nguyễn Phan Hoài L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Phan Hoài L khai nhận: Vào khoảng 05 giờ 10 phút, ngày 14 tháng 10 năm 2023, tại ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh, bị cáo điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 71B4- 455xx có giá đèo phía sau chở 50 con vịt lưu thông trên Đường H hướng huyện C đi huyện T, tỉnh Trà Vinh không chú ý quan sát khi phát hiện bị hại Phạm Thị Út E đang đi bộ cùng chiều phía trước quá gần nên lách (đánh lái) sang trái, giá đèo quẹt từ phía sau làm bị hại ngã xuống lộ nhựa bị thương nặng và được gia đình đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh T cấp cứu. sau đó Phạm Thị Út E được chuyển đến bệnh viện C - Thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu, điều trị. Đến ngày 15/10/2023 bà Phạm Thị Út E tử vong là do chấn thương sọ não nặng.
Quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long: Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và sau khi phân tích các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, nhân thân, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan Hoài L mức án từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Vì phạm quy định về tham giao thông đường bộ” nhưng được cấn trừ vào thời hạn tạm giam từ ngày 06/12/2023 đến ngày 08/01/2024.
Về trách nhiệm dân sự do các bên đương sự không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Ngoài ra, vị còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phan Hoài L phát biểu quan điểm: Thống nhất với cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long quyết định truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật hình sự. Luật sư không bào chữa về tội danh và khung hình phạt chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bởi vì, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tai nạn xảy ra là ngoài ý muốn của bị cáo, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý nên không lường trước hậu quả xảy ra, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình; bị cáo phải nuôi hai người con còn nhỏ; sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình để khắc phục toàn bộ thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại; Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; gia đình bị cáo có thân nhân có công với cách mạng. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, luôn chấp hành tốt quy định của pháp luật. Từ những căn cứ nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo gửi lời xin lỗi đến gia đình bị hại, do bị cáo lơ là chủ quan đã gây ra tai nạn. Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và giới hạn xét xử của Tòa án theo Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự. Những người đại diện hợp pháp cho bị hại và người làm chứng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp với Điều 292 và Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Lời nhận tội của bị cáo Nguvễn Phan Hoài L tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng tại Cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra thu thập được. Do vậy, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Phan Hoài L về tội “Vi phạm quy định về tham giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.
[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự, an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ, mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông đường bộ nhằm đảm bảo tính mạng, sức khỏe, tài sản cho mọi người khi tham gia giao thông hạn chế mức thấp nhất những thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra. Trong vụ án này, bản thân bị cáo đã được cấp giấy phép lái xe theo quy định nhưng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn giao thông là do bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 71B4 - 455xx tham gia giao thông không chú ý quan sát và xếp hàng hóa trên xe vượt quá giới hạn quy định dẫn đến tai nạn giao thông và hậu quả làm chết người.
[4]. Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi vô ý, hậu quả đã xảy ra. Hiện nay, tình hình tai nạn giao thông hiện nay đáng lo ngại, do phần lớn ý thức chấp hành Luật giao thông của những người tham gia giao thông chưa cao, thường chủ quan, không chú ý quan sát phần đường, đi không đúng tuyến đường, phần đường quy định...gây hoang mang lo sợ cho mọi người khi tham gia giao thông. Do đó, Hội đồng xét xử cần lên cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi của bị cáo và tính chất của vụ án.
[5]. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét: Sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình khắc phục toàn bộ hậu quả cho người đại diện hợp pháp của bị hại; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người diện hợp pháp cho bị hại có đơn xin giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có ông ngoại là người có công với cách mạng (Thương binh hạng 3/4); bị cáo phạm tội với lỗi vô ý; bị hại đi bộ không sát mép đường góp phần dẫn đến tai nạn giao thông; bị cáo là lao động chính trong gia đình; phạm tội lần đầu, bị cáo có 02 (Hai) còn nhỏ. Đây là những căn cứ để áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Do bị cáo Nguyễn Phan Hoài L có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù nhưng bị cáo vẫn có khả năng tự cải tạo, nên cho bị cáo hưởng án treo là không nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Việc cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP, ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị quyết số: 02/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Do đó ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần. Ý kiến của người bào chữa tại phiên tòa là có căn cứ theo quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại và ông Nguyễn Văn H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và đến tại phiên tòa hôm nay bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá trình điều tra những người tham gia tố tụng đều thống nhất với bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 765/KLGĐTT-KTHS, ngày 20/10/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh T; Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường của Công an huyện C, tỉnh Trà Vinh và kết luận lỗi trong vụ tai nạn. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[8]. Về vật chứng Cơ quan điều tra đã thu giữ:
- 01 xe mô tô mang biển kiểm soát 71B4 - 455xx (số khung 3851LY100052, số máy JA52E0196889) bị hư, hỏng do tai nạn giao thông và 01 giấy đăng ký đăng ký xe mô tô 71B4-455xx, mang tên Nguyễn Văn H, số 272963 là tài sản của ông Nguyễn Văn H nghĩ nên trả lại cho ông H.
- 01 giá đèo hàng bằng kim loại nằm ngang có chiều dài 1,2 mét, chiều rộng 0,36 mét. Từ yên xe đo ra bên phải dài 0,44 mét, đo ra bên trái dài 0,47 mét. Khoảng cách từ giá đèo hàng đến mặt đất 0,84 mét của ông Nguyễn Văn H. Tại phiên tòa ông Nguyễn Văn H không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1, mang tên Nguyễn Phan Hoài L, số 920226021846 của bị cáo L nghĩ nên trả lại cho bị cáo.
[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.
[10]. Bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị hai; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phan Hoài L phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
- Căn cứ: Điều 268 và Điều 269 Bô luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan Hoài L 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm. Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Phan Hoài L cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre là nơi bị cáo cư trú và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Nguyễn Phan Hoài L thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách: Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo (Nguyễn Phan Hoài L) cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo (Nguyễn Phan Hoài L) phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại và ông Nguyễn Văn H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về vật chứng: Căn cứ điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) giá đèo hàng bằng kim loại nằm ngang có chiều dài 1,2 mét, chiều rộng 0,36 mét. Từ yên xe đo ra bên phải dài 0,44 mét, đo ra bên trái dài 0,47 mét. Khoảng cách từ giá đèo hàng đến mặt đất 0,84 mét của ông Nguyễn Văn H.
- Giao trả cho ông Nguyễn Văn H 01 xe mô tô mang biển kiểm soát 71B4-455xx (số khung 3851TY100052, số máy JA52E0196889) bị hư, hỏng do tai nạn giao thông và 01 giấy đăng ký xe mô tô 71B4- 455xx, số 272963 mang tên Nguyễn Văn H.
- Giao trả cho bị cáo Nguyễn Phan Hoài L01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1, số 920226021846 mang tên Nguyễn Phan Hoài L.
(Các vật chứng này hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long đang quản lý).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
Buộc bị cáo Nguyễn Phan Hoài L nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày án sơ thẩm tuyên. Riêng người đại diện hợp pháp cho bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
(Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07 và 09 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự).
Phiên tòa sơ thẩm được diễn ra theo hình thức trực tuyến tại hai điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại Tòa án nhân dân huyện Càng Long, và điểm cầu thành phần tại Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh (với sự hỗ trợ của ông Nguyễn Tấn Đ, Kỹ thuật viên Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh).
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 20/2024/HS-ST
Số hiệu: | 20/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về