Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 20/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh S xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1985, tại huyện T, tỉnh S; nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện T, tỉnh S; nghề nghiệp: lái xe; Trình độ văn hóa (Học vấn): 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: không; con ông: Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; vợ: Hoàng Thị Hạnh V; con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Bị hại: Nguyễn Hồng T (Đã chết). Người đại diện theo ủy quyền cho bị hại: Ông Vũ Văn P, sinh năm 1965. Địa chỉ: Bản C, xã C, huyện Y, tỉnh S. Có mặt.

- Bị đơn dân sự: Bà Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 1992. Địa chỉ: Tiểu khu B, thị trấn H, huyện M, tỉnh S; người đại diện theo ủy quyền ông Trần Mạnh P1, sinh năm 1987, địa chỉ: Tiểu khu B, thị trấn H, huyện M, tỉnh S. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 15/2/2023, Nguyễn Văn N điều khiển xe ô tô BKS: 26C - xxxxx kéo theo sơmirơ mooc BKS 26R-xxxxx đến Công ty cổ phần H tại bản B, xã S, huyện Y, tỉnh S để bốc gạch, đến khoảng 15 giờ bốc xong, N điều khiển xe ô tô di chuyển trên Quốc lộ F theo hướng Hà Nội- S để đến huyện T. Khi đến địa phận bản Ngùa, xã C, là đoạn đường thẳng, bên phải là cây xăng M1, bên trái đường là nhà dân, phía trước là khúc cua lên dốc vòng sang trái và cách đầu xe khoảng 15m có một xe mô tô do một bà Nguyễn Hồng T điều khiển đang đi cùng chiều phía trước. Thấy vậy, N giảm số xe từ số 8 về số 7 và tăng tốc độ xe ô tô lên khoảng 50km/giờ để leo dốc và vượt mô tô. Khi đi đến giữa đoạn cua thấy xe ô tô đi ngang xe mô tô thì phát hiện ô tô khó đánh lái, mất kiểm soát, nhìn qua gương chiếu hậu thấy phần rơ moóc phía sau đã nghiêng hết sang bên phải đồng thời có tiếng nổ lớn (do mâm kéo của rơ mooc bị vỡ). Theo phản xạ, N định rà phanh xe nhưng không được, ngay lúc đó, rơ moóc đổ nghiêng sang phải rồi trượt dài trên phần đường phải, đẩy đầu kéo xuống rãnh thoát nước bên phải đường. Sau khi tai nạn xảy ra, N xuống xe thì thấy rơ moóc bị đổ khiến nhiều gạch bị văng ra ngoài lề đường phải, xác định bà Nguyễn Hồng T điều khiển xe mô tô mà N đang vượt đã bị rơ moóc đè lên nên N cùng người dân di chuyển gạch để tìm người phụ nữ để đưa đi cấp cứu nhưng bà Nguyễn Hồng T đã tử vong tại hiện trường, 02 phương tiện hư hỏng.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường vụ tai nạn giao thông (theo chiều hướng Hà Nội- S) xảy ra ngày 15/02/2023 tại Km 243 + 730 Quốc lộ F thuộc địa phận bản P, xã C, huyện Y, tỉnh S là đoạn đường vòng của sang trái, có tổ chức giao thông 02 chiều, mặt đường được trải nhựa áp phan rộng 7,5m, không có chướng ngại vật, ở giữa mặt đường có vạch kẻ 1.4 phân chia phần đường, lề phải, lề trái đều rộng 1,7m, tiếp giáp lề phải, lề trái là rãnh thoát nước rộng 1,2m, sâu 0,6m. Tại vị trí Km 243 + 450 và Km 243 + 500 lần lượt có hệ thống biển báo hiệu W202a (Biển báo nhiều chỗ ngoặt của nguy hiểm liên tiếp bên trái) và biển báo W245a (Biển báo đi chậm) nằm ngoài lề đường phải hướng Hà Nội- S, mặt biển quay hướng Hà Nội. Điểm cố định là cọc tiêu 243/H7 bên lề đường phải hướng Hà Nội - S. Xác định mép đường trái hướng Hà Nội- S là mép đường chuẩn.

Tại hiện trường có 10 dấu vết, các dấu vết được đánh dấu, số thứ tự từ 01 đến 10 theo chiều hướng Hà Nội- S, cụ thể như sau: vết 1: Vị trí vết cày có hình vòng cung trên phần đường phải, kích thước (13,4 x 09 x 0,01)m, chiều hướng từ trái qua phải. Vết 2: Vị trí các viên gạch, biển báo, cọc tiêu trên phần đường phải, lề đường phải có diện (24 x 5,8)m. Vết 3: Vị trí sơmi rơ moóc biển kiểm soát 26R - xxxxx sau khi xảy ra tai nạn đổ nghiêng phải trên phần đường phải, lề đường phải, đầu sơmirơ moóc chếch hướng rãnh thoát nước bên phải hướng S, đuôi sơmirơ moóc chếch chéo vạch kẻ 1.4 phân chia phần đường hướng Hà Nội. Vết 4: Vị trí vết dầu loang trên phần đường phải, có diện (16,9 x 4,4)m. Vết 5: Vị trí vết cà trên phần đường phải, chiều hướng từ trái qua phải, kích thước (13,35 x 0,9) m. Vết 6: Vị trí vết trượt lốp trên phần đường phải có kích thước 7,3m x 0,4m, chiều hướng từ trái qua phải. Vết 7: Vị trí vết trượt lốp trên phần đường phải có kích thước 5,6m x 0,4m, chiều hướng từ trái qua phải. Vết 8: Vị trí xe ô tô đầu kéo biển số 26C-xxxxx sau khi xảy ra tai nạn đỗ trên phần đường phải và rãnh thoát nước bên phải, đầu xe ô tô chếch chéo rãnh thoát nước bên phải, đầu xe quay về hướng bãi đất trống bên phải, đuôi xe ô tô chếch chéo vạch kẻ 1.4 phân chia phần đường hướng S. Vết 9: Vị trí tử thi bà Nguyễn Hồng T sau khi xảy ra tai nạn nằm dưới thùng bên phải sơmirơ moóc biển số 26R-xxxxx trên lề đường phải và rãnh thoát nước bên phải. Vết 10: Vị trí xe mô tô biển số 26K5 - xxxx sau khi xảy ra tai nạn nằm đổ nghiêng phải trên lề đường phải, rãnh thoát nước bên phải.

Kết quả khám nghiệm phương tiện: Xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 26C- xxxxx: Ốp nhựa bảo vệ lọc gió nứt vỡ, biến dạng từ trước ra sau; Chốt mâm xoay đứt gãy để lại vết rách có kích thước (45 x 20)cm; Giá sắt đỡ bảo vệ bình dầu biến dạng, bung bật khỏi vị trí ban đầu; B đựng dầu bị bẹp méo, biến dạng, bung rời khỏi vị trí ban đầu; Bánh lốp ngoài trục số 2, bên phải bị rách thủng, không còn hơi; Mặt lăn bánh lốp trục số 2, bên trái để lại vết mài mòn chùi sạch bụi; Mặt lăn bánh lốp trục số 3, bên trái để lại vết mài mòn chùi sạch bụi. Sơmi rơ moóc biển kiểm soát 26R- xxxxx: Chốt mâm xoay rơ moóc bị gãy, biến dạng; Toàn bộ mặt ngoài, bên phải sơmi rơ moóc để lại vết bẹp méo, biến dạng, bám dính dầu, bột đất màu nâu đỏ, chiều hướng từ trước ra sau; Mặt ngoài khoang số 2, bên phải sơmirơ moóc có dắt dính yên xe mô tô biển kiểm soát 26K5 - xxxx; T1 mặt trước sơmirơ moóc bung bật, gãy rời ngả về phía trước. Kỹ thuật an toàn phương tiện: Hệ, phanh, treo, côn, ga, số, đồng hồ, đèn, còi, cần gạt nước, gương chiếu hậu có hoạt động.

Xe mô tô biển kiểm soát 26K5- xxxx: Toàn bộ cổ phốt, cụm đèn chiếu sáng, đồng hồ công tơ mét, đèn tín hiệu phía trước, phía sau, yếm chắn gió, càng xe phía trước bị biến dạng, bẹp méo, không rõ hình dạng, vở bung bật khỏi vị trí ban đầu; Trục bánh trước, bánh sau xe mô tô gãy rời khỏi vị trí ban đầu; Biển kiểm soát xe mô tô bung rời khỏi vị trí ban đầu; May ơ, lan hoa bánh trước, bánh sau đứt gãy biến dạng hoàn toàn; Yên xe bung bật khỏi vị trí ban đầu; cần chân phanh bị biến dạng tì ép vào giá để chân trước; Mặt trước động cơ để lại vết mài xước, kích thước (33 x 18)cm; ông nối đầu ống giảm thanh bị biến dạng bẹp méo, bung bật khỏi vị trí ban đầu; Mặt dưới ống giảm thanh để lại vết mài xước, kích thước (40 x 10) cm; Giá sắt để hàng lắp thêm hai bên sườn xe biến dạng hoàn toàn; Nhiều bộ phận trên xe mô tô bám dính nhiều bùn đất màu nâu đỏ, bám dính dầu mỡ. Kỹ thuật an toàn phương tiện: Hệ thống ga, số, đồng hồ, đèn, còi, gương hỏng hoàn toàn.

Căn cứ kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện xác định khoảng va chạm giữa sơmi rơ mooc BKS 26R-xxxxx, với xe mô tô BKS 26K5- xxxx nằm trên phần đường phải hướng Hà Nội - S.

Kết quả đo nồng độ cồn đối với Nguyễn Văn N: Sau khi xảy ra tai nạn, Cơ quan Công an tiến hành kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở, kết quả: Nồng độ cồn: 0,540mg/l khí thở.

Kết quả kiểm tra chất ma túy trong cơ thể của Nguyễn Văn N ngày 15/2/2023: Âm tính với chất ma túy.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 35/KLGĐTT-TTPY ngày 09/3/2023, của Trung tâm pháp y Sở Y1 kết luận: Nguyên nhân chết của Nguyên Hồng T là: Đa chấn thương, chấn thương sọ não, hàm mặt, gãy đốt sống cổ C4, C5 đứt tủy là nguyên nhân tử vong.

Xác định tải trọng hàng hóa do xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 26C - xxxxx, kéo theo sơmi rơ mooc biển kiểm soát 26R - xxxxx vận chuyển khi xảy ra tai nạn: Do sau khi xảy ra tai nạn, gạch bị đổ ra đường vỡ nhiều nên không thể tiến hành cân xác định khối lượng hàng hóa căn cứ kết quả làm việc với Công ty cổ phần H xác định ngày 15/02/2023, xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 26C- xxxxx, kéo sơmi rơ mooc biển kiểm soát 26R - xxxxx vận chuyển 26.000 viên gạch với khối lượng mỗi viên trung bình khoảng từ 1,5kg - 1,55kg. Như vậy, tổng khối lượng gạch dao động khoảng từ 39.000kg - 40.300kg, quá tải trọng cho phép.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 11/KL-HĐĐG ngày 27/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y xác định giá trị thiệt hại đối với phần hư hỏng do tai nạn giao thông xảy ra ngày 15/02/2023 của xe mô tô biển kiểm soát 26K- xxxx là 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

Vật chứng gồm có: 01 xe ô tô BKS: 26C-xxxxx, nhãn hiệu CHENGLONG, loại xe ô tô đầu kéo, số loại LZ4251QD, số khung DY34FL207137, số máy 3MB2L1F00074, màu sơn bạc, bị hư hỏng do tai nạn giao thông; Giấy tờ gồm: 01 (Một) Giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số EA 0847941, biển số đăng ký 26C - xxxxx, có hiệu lực đến hết ngày 17/6/2023; 01 (Một) Giấy biên nhận thế chấp, số 810 của Ngân hàng N1 (A) - Chi nhánh huyện M; 01 (Một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 022581, biển số đăng ký 26C-xxxxx, tên chủ xe là Nguyễn Thị Hải Y; 01 (Một) sơmi rơ moóc biển kiểm soát 26R-xxxxx, nhãn hiệu CIMC, số khung 63C6E2007483, màu sơn bạc; 01 (Một) Giấy chứng nhận đăng ký rơ moóc, sơmirơ moóc số 000973, biển số đăng ký 26R- xxxxx, tên chủ xe là Nguyễn Văn S; 01 (Một) Giấy chứng nhận kiểm định số 1232942, phương tiện kiểm định biển kiểm soát 26R- xxxxx do Trung tâm Đ, tỉnh Phú Thọ cấp ngày 27/01/2023 và xe mô tô biển kiểm soát 26K5- xxxx, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe nữ, số khung 030572, số máy 030552, màu sơn đỏ - đen; Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 072012, tên chủ xe Nguyễn Văn B1, đăng ký lần đầu ngày 20/5/2009, do Công an tỉnh S cấp ngày 20/5/2009 và 01 (Một) Giấy phép lái xe hạng FC, số A, mang tên Nguyên Văn N do Sở Giao thông vận tải tỉnh H cấp ngày 18/03/2022, có giá trị đến ngày 18/3/2027.

Tại bản Cáo trạng số: 67/2023/CT-VKSYC ngày 16 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Sơn Ea đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa công khai, lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi, không khai gì thêm so với lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng diêm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 30 tháng đến 36 tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách là 60 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng đề nghị áp dụng khoản 1, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả cho bị cáo Nguyễn Văn N 01 (Một) Giấy phép lái xe hạng FC, số A, mang tên Nguyễn Văn N do Sở Giao thông vận tải tỉnh H cấp ngày 18/03/2022, có giá trị đến ngày 18/3/2027.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra tai nạn, ngày 18/02/2023 gia đình bị cáo Nguyễn Văn N và đại diện bị đơn dân sự đã cùng gia đình bị hại thỏa thuận thống nhất bồi thường cho gia đình bị hại Nguyễn Thị T2 số tiền 210.000.000 đồng (Hai trăm mười triệu đồng) tiền tổ chức mai táng, tổn thất về tinh thần và tiền sửa xe mô tô. Đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu đề nghị bị cáo, bị đơn dân sự bồi thường khoán nào khác, cần được ghi nhận.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của bị cáo Nguyễn Văn N trình bày: Bị cáo nhất trí như lời luận tội của Viện kiểm sát, không có yêu cầu, đề nghị gì thêm.

Ý kiến của người đại diện theo ủy quyền cho bị hại ông Vũ Văn Pnh bày: Gia đình bị hại đã nhận được số tiền bồi thường 210.000.000đ (Hai trăm mười triệu đồng) bao gồm chi phí mai táng, tổn thất tinh thần, chi phí đền bù chiếc xe mô tô 26K5-xxxx, không đề nghị bị cáo bồi thường khoản nào khác. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến của bị đơn dân sự bà Nguyễn Thị Hải Ynh bày tại biên bản ghi lời khai: Sau khi xảy ra va chạm ô tô xe ô tô ô tô BKS: 26C-xxxxx, nhãn hiệu CHENGLONG, loại xe ô tô đầu kéo, số loại LZ4251QD, số khung DY34FL207137, số máy 3MB2L1F00074, màu sơn bạc và 01 (Một) sơmi rơ moóc biển kiểm soát 26R- xxxxx, nhãn hiệu CIMC, số khung 63C6E2007483, màu sơn bạc của bà Nguyễn Thị Hải Y hư hỏng, hai bên đã tự thỏa thuận sửa xe, phía bị đơn dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản nào khác.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của bị cáo, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất. Ngoài ra không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[11 Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn dân sự và người đại diện theo ủy quyền, xét việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 15/02/2023, tại K+ 730 Quốc lộ thuộc địa phận bản P, xã C, huyện Y, tỉnh S, Nguyễn Văn Nhiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 26C- xxxxx, kéo theo sơmi rơ moóc biển kiểm soát 26R- xxxxx chở gạch vượt trọng tải cho phép từ 30% đến 50%, đồng thời trong hơi thở có nồng độ cồn 0,540 mg/1 khí thở tham gia giao thông hướng Hà Nội- S, khi đến đoạn đường có biển báo hiệu W202a (Biển báo nhiều chỗ ngoặt nguy hiểm liên tiếp bên trái) và biển báo W245a (Biển báo đi chậm), nhưng bị cáo không chấp hành quy định biển báo hiệu, mà tăng tốc vượt xe máy phía trước khiến sơmirơ moóc đổ nghiêng sang bên phải đường đè vào xe mô tô biển kiểm soát 26K5- xxxx do bà Nguyễn Hồng T khiển di chuyển cùng chiều. Hậu quả bà Nguyễn Hồng Tong, xe mô tô hư hỏng. Quá trình điều tra xác định bị cáo Nguyễn Văn Ny phép lái xe hạng FC, số 140108000xxx, do Sở Giao thông vận tải tỉnh H ngày 18/03/2022, có giá trị đến ngày 18/3/2027.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, phù hợp với kết luận giám định pháp y và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Nhiển xe ô tô vi phạm quy tắc tham gia giao thông đường bộ, vượt xe ở đoạn đường vòng, có biển báo hiệu nguy hiểm, xe đi quá tốc độ Quy định 54km/50km/giờ, xe chở hàng nặng quá tải quy định tại khoản 1 Điều 11 khoản 5 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ, khoản 1 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT của Bộ G định về vượt xe, tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ, cụ thể như sau:

“Điều 11. Chấp hành báo hiệu đường bộ: 1. Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ..

“Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT: Các trường hợp phải giảm tốc độ: Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ đề có thể dừng lại một cách an toàn trong các trường hợp sau: 1. Có biển báo hiệu cảnh báo nguy hiểm hoặc có chướng ngại vật trên đường...” Khoản 5 Điều 14 quy định không được vượt xe khi có một trong các trường hợp sau đây: c) Đường vòng, đầu dốc và các vị trí có tầm nhìn hạn chế;

Hành vi vi phạm quy tắc tham gia giao thông đường bộ của bị cáo là nguyên nhân trực tiếp gây hậu quả chết người. Sau khi tai nạn xảy ra xét nghiệm nồng độ cồn trong hơi thở của bị cáo có nồng độ cồn là 0,540mg/l lít khí thở, vì vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, với tình tiết định khung tăng nặng “Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định ...” Trên cơ sở đó đủ điều căn cứ kết luận, hành vi trên của bị cáo Nguyễn Văn Nm vào tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy bị cáo là hoàn toàn có căn cứ. Việc xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo điều khiển xe ô tô đầu kéo, kéo theo sơmi rơ moóc không tuân thủ quy định của luật giao thông đường bộ, khiến sơmirơ moóc đổ nghiêng sang bên phải đường đè vào xe mô tô do bà Nguyễn Hồng T khiển di chuyển cùng chiều. Hậu quả là bà Nguyễn Hồng Tong, xe mô tô hư hỏng. Hành vi phạm tội của bị cáo có mức hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015: “phạt tù từ 03 năm đến 10 năm”.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi tai nạn xảy ra bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình người bị hại, đại diện cho bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là cơ sở để xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Từ sự phân tích trên, xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng phạm tội do lỗi vô ý tự tin, cẩu thả nên chưa cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội, mà cần vận dụng Điều 54 để quyết định hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú của bị cáo giám sát giáo dục cũng đủ điều kiện giúp bị cáo tự cải tạo trở thành người lương thiện có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 người phạm tội còn bị khấu trừ một phần thu nhập, có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh phạm tội của bị cáo là do lỗi vô ý, thu nhập nguồn sống chính từ nghề lái xe, chỉ đủ ăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đối với 01 xe ô tô ô tô BKS: 26C-xxxxx, nhãn hiệu CHENGLONG, loại xe ô tô đầu kéo, số loại LZ4251QD, số khung DY34FL207137, số máy 3MB2L1F00074, màu sơn bạc, bị hư hỏng do tai nạn giao thông; 01 (Một) sơmi rơ moóc biển kiểm soát 26R- xxxxx, nhãn hiệu CIMC, số khung 63C6E2007483, màu sơn bạc cùng các giấy tờ thu giữ kèm theo; 01 xe mô tô biển kiểm soát 26K5- xxxx, nhăn hiệu YAMAHA, loại xe nữ, số khung 030572, số máy 030552, màu sơn đỏ - đen; Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 072012, tên chủ xe Nguyễn Văn B1, đăng ký lần đầu ngày 20/5/2009, do Công an tỉnh Sp ngày 20/5/2009. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Đại diện cho bị hại, bị đơn dân sự không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với vật chứng là 01 (Một) giấy phép lái xe hạng FC, số A, mang tên Nguyễn Văn N Giao thông vận tải tỉnh H ngày 18/03/2022, có giá trị đến ngày 18/3/2027, xét thấy đây là giấy phép hành nghề của bị cáo, cần được trả lại cho bị cáo theo quy định.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Văn N nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 210.000.000đ (Hăm trăm mười triệu đồng) tiền tổ chức mai táng, tổn thất về tinh thần và chi phí sửa xe mô tô của bị hại. Đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không đề nghị bị cáo cũng như bị đơn dân sự bồi thường khoản nào khác.

Đối với phần hư hại của chiếc xe ô tô BKS: 26C-xxxxx, nhãn hiệu CHENGEONG, loại xe ô tô đầu kéo, số loại LZ4251QD, số khung DY34FL207137, số máy 3MB2E1F00074, màu sơn bạc, và 01 (Một) sơmi rơ moóc biển kiểm soát 26R-xxxxx, nhãn hiệu CIMC, số khung 63C6E2007483, màu sơn bạc bị hư hỏng do tai nạn giao thông, bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho người đại diện cho bị đơn dân sự, bị đơn dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản nào khác.

Xét thấy các thỏa thuận trên của bị cáo với gia đình bị hại và bị đơn dân sự là hoàn toàn tự nguyện cần được ghi nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điềm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Nội: Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Nng (Ba mươi hai tháng) tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 27/12/2023.

Giao bị cáo Nguyễn Văn N ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh S giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh S trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586 và 591 Bộ luật Dân sự; Điều 48 Bộ luật Hình sự Ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn N diện bị hại đã tự thỏa thuận thống nhất bồi thường cho gia đình bị hại Nguyền Thị T2iền 210.000.000đ (Hai trăm mười triệu đồng) gồm tiền tổ chức mai táng, tổn thất về tinh thần và tiền sửa xe mô tô. Đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không đề nghị bị cáo bồi thường khoản nào khác. Ghi nhận bị cáo và bị đơn dân sự là chủ xe ô tô đã tự thỏa thuận về sửa chữa xe ô tô không yêu cầu bồi thường.

3. Về vật chứng vụ án: áp dụng khoản 1, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Trả cho bị cáo Nguyễn Văn Nt) giấy phép lái xe hạng FC, số A, mang tên Nguyễn Văn NGiao thông vận tải tỉnh H ngày 18/03/2022, có giá trị đến ngày 18/3/2027.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an và chi cục Thi hành án dân sự huyện Y).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Nn phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao, gửi bản án theo thủ tục hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 20/2023/HS-ST

Số hiệu:20/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về