TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, TP ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 20/2022/HSST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
* Họ và tên: Trần Minh T
- Sinh ngày: 05/3/1985 tại Quãng Ngãi
- Tên gọi khác: Không có - Giới tính: Nam
- Nơi thường trú: thị trấn B, huyện C, tỉnh Quảng Ngãi
- Nơi cư trú: Tổ X, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng - Quốc tịch: Việt Nam
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Không
- Trình độ học vấn: 12/12
- Nghề nghiệp: Kinh doanh
- Con ông Trần T1 và bà Phạm Thị Minh T2; gia đình có 3 chị em, bị cáo T là con út trong gia đình; có vợ là Hồ Lan A và 04 người con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2021
- Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: ông Dư Ngọc T3 - Luật sư của Công ty Luật TNHH T4 thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng.
* Bị hại: anh Lê Văn D - Sinh năm: 1994 - Địa chỉ: xóm N, xã J, huyện R, tỉnh Hà Nam (đã chết).
Người đại diện theo pháp luật của anh D:
1/ Bà Lê Thị Kim D2, sinh năm 1957- Địa chỉ: xóm N, xã J, huyện R, tỉnh Hà Nam. Người đại diện tham gia tố tụng: ông Lê Ngọc C - Sinh năm 1956 - Địa chỉ: Tổ E, phường U, quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
2/ Bà Võ Thị N - Sinh năm 1997 - Địa chỉ: thôn V, xã W, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Có mặt
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Công ty TNHH T5 - Địa chỉ: số G, đường Z, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Ngọc Đại H1 - Sinh năm 1992 - Nghề nghiệp: Nhân viên. Có mặt
2/ Ông Ngô Văn H - Sinh năm 1970 - Địa chỉ: Tổ I, phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt
3/ Ông Lê Văn H1 - Sinh năm 1991 - Địa chỉ: Tổ I, phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 04/6/2021, Trần Minh T điều khiển xe ôtô biển kiểm soát 43A - 491.81 lùi từ trong sân Công ty TNHH T5 tại số G, đường Z, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng để ra đường Z. Khi T điều khiển xe ôtô đi lùi ra tại vị trí phần đầu xe trên lề đường, phần đuôi xe dưới lòng đường Z thì T cho xe dừng lại rồi xuống xe đi vào đóng cửa cổng công ty. Sau đó, T tiếp tục lên xe hạ kính cửa trước bên phụ để tiện quan sát. Trong quá trình đi lùi xe từ trên lề đường xuống lòng đường Z, T không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn cho các phương tiện khác đang tham gia giao thông khi lùi xe. Cùng lúc đó, xe môtô mang biển kiểm soát 43K6 - 9218 do anh Lê Văn D điều khiển đi đúng làn đường theo hướng Cầu Vượt V ra Huế vừa đi tới, do xe ôtô T điều khiển lùi ra chắn ngang đường nên anh D tông mạnh vào cửa trước bên phải của xe ôtô ngã xuống đường tử vong tại chỗ, xe môtô biển kiểm soát 43K6 - 9218 và xe ôtô biển kiểm soát 43A - 491.81 bị hư hỏng nặng.
Tại Bản Kết luận giám định pháp y tử thi số: 65/GĐ-PY ngày 10/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Lê Văn D là đa chấn thương.
Theo biên bản đo nồng độ cồn số 00017 lúc 03h20 ngày 05/6/2021 thể hiện: Kết quả đo nồng độ cồn trong hơi thở của Trần Minh T là: 0,190 miligam/1 lít khí thở.
Ngày 29/9/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu có Bản kết luận số: 60/KL-HĐĐG kết luận: Tổng giá trị thiệt hại tài sản đối với xe ô tô biển kiểm soát 43A-491.81 và xe mô tô biển kiểm soát 43K6-9218 là 532.510.000 đồng (Trong đó: Giá trị thiệt hại của xe ô tô là 530.585.000 đồng và xe mô tô là 1.925.000 đồng) * Sau tai nạn, hiện trường thể hiện như sau:
Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là phần đường hướng Đà Nẵng ra Huế. Đường Z là đường đôi, rộng 23m, có hai chiều xe chạy riêng biệt, mặt đường làm bằng bê tông nhựa bằng phẳng. Chính giữa đường có dải phân cách cố định rộng 2m, chia thành hai phần đường bằng nhau, mỗi phần đường rộng 10,5m và có 3 làn đường xe chạy bằng nhau, mỗi làn đường rộng 3,5m và được chia bằng vạch kẻ đường sơn màu trắng đứt khoản, làn đường sát dải phân cách dành cho xe ô tô, làn đường ở giữa dành cho xe ô tô và mô tô, làn đường sát lề đường dành cho xe mô tô và xe thô sơ. Đường có vỉa hè rộng 5m. Nơi xảy ra tai nạn giao thông, đường thẳng, tầm nhìn rộng không bị che khuất, mặt đường khô ráo. Tất cả các dấu vết, phương tiện tại hiện trường đều nằm trên làn đường sát lề đường (làn đường dành cho xe mô tô và thô sơ) của phần đường Z có chiều Đà Nẵng ra Huế.
Chọn điểm mốc là trụ điện số 23DF13C trên vỉa hè đường Z (theo hướng Đà Nẵng - Huế). Chọn mép lề đường bên phải của đường Z theo hướng Đà Nẵng – Huế làm chuẩn (gọi tắt là mép chuẩn). Tất cả số đo tại hiện trường kéo thước vuông góc với mép lề đường chọn làm chuẩn.
- Xe mô tô biển kiểm soát 43K6-9218 (Ký hiệu số 1) nằm ngã về bên phải trên mặt đường ở làn đường tiếp giáp vỉa hè, đầu xe quay về hướng Huế và chếch về dải phân cách cố định. Tâm trục bánh xe trước cách mép chuẩn là 1,6m. Tâm trục bánh sau cách mép chuẩn là 1,2m. Động cơ xe đã tắt, phần thân vỏ xe bị vỡ nhiều vị trí.
- Nạn nhân (Ký hiệu số 2) là nam giới, nằm trên mặt đường trước đầu xe mô tô ký hiệu số 1 ở làn đường tiếp giáp với vỉa hè, trong tư thế nằm ngửa, đầu quay về hướng Huế chếch thẳng vào mép chuẩn, hai chân hướng về ra đường chếch vào dải phân cách cố định. Trên mặt đường tại vị trí dưới đầu nạn nhân có vết vật chất màu đỏ ướt dạng máu. Đỉnh đầu nạn nhân cách mép chuẩn là 0,5m.
- Xe ô tô biển kiểm soát 43A-491.81 (Ký hiệu số 3) trong trạng thái đang dừng trên đường Tôn Đức Thắng, đầu xe quay về hướng lề đường chếch thẳng vào vỉa hè của mép lề đường chọn làm chuẩn, hệ thống đèn chiếu sáng trước – đèn báo hãm sau trong tình trạng sáng đèn, hệ thống đèn cảnh báo nguy hiểm trước và sau sáng đèn và nhấp nháy, túi khí bên trong xe ở hai bên trong tình trạng đã bung ra. Tâm trục bánh trước bên phải trùng với mép chuẩn và cách đầu nạn nhân ký hiệu số 2 về hướng Đà Nẵng là 0,8m. Tâm trục bánh sau bên phải cách mép chuẩn là 2,6m. Tâm trục bánh trước bên trái cách mép chuẩn là 1,2m và cách điểm mốc về hướng Huế (kéo thước trực tiếp) là 6,3m.
- Vị trí mảnh vỡ (Ký hiệu số 4) nằm rải rác trên mặt đường xung quanh đầu xe mô tô ký hiệu số 1, trên diện (1,5 x 0,6)m. Tâm vị trí mảnh vỡ cách mép chuẩn là 1,4m.
* Về trách nhiệm dân sự:
Trần Minh T đã bồi thường cho gia đình nạn nhân Lê Văn D tổng số tiền 439.000.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của gia đình nạn nhân có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo và không có yêu cầu đền bù gì thêm về dân sự.
* Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 18 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố: Trần Minh T về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ"; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Minh T từ 18 tháng đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng. Tang vật của vụ án: đề nghị trả 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số: 510171003437 cho Trần Minh T; tiếp tục lưu trữ tại hồ sơ vụ án 01 đĩa CD-R bên trong lưu trữ 01 đoạn video ghi lại một phần diễn biến vụ tai nạn giao thông; đối với xe ôtô biển kiểm soát 43A-491.81 và các giấy tờ liên quan, Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 08/CSĐT ngày 11/01/2022 và Quyết định xử lý vật chứng số: 60/CSĐT ngày 08/10/2021 nên không đề cập; đối với xe môtô biển kiểm soát 43K6-9218 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 43K6-9218 số: A0100581 hiện chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên giao cho Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý sau. Về trách nhiệm dân sự: Đại diện bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập.
* Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Minh T thống nhất với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo.
Tại phiên tòa, Trần Minh T không có ý kiến tranh luận đối với nội dung luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo xin lỗi gia đình người bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Liên Chiểu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:
Qua xem xét lời khai của bị cáo, biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn, biên bản khám nghiệm phương tiện và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:
Khoảng 23h30 ngày 04/6/2021, tại trước số nhà G, đường Z phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng, Trần Minh T điều khiển xe môtô biển kiểm soát 43A-491.81 đi lùi từ trên lề đường xuống lòng đường Z nhưng không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn khi lùi xe. Cùng lúc đó, xe môtô biển kiểm soát 43K6-9218 do anh Lê Văn D điều khiển đi đúng làn theo hướng Cầu Vượt V ra Huế vừa đi tới, tông mạnh vào cửa trước bên phải của xe ôtô. Hậu quả, anh D ngã xuống đường tử vong tại chỗ. Thời điểm gây tại nạn, Trần Minh T đã sử dụng rượu bia, nồng độ cồn đo được là 0,190 miligam/1 lít khí thở. Hành vi nêu trên của T vi phạm khoản 8, khoản 23 Điều 8, khoản 1 Điều 16 Luật Giao thông đường bộ; Khoản 1 Điều 35 Luật phòng, chống tác hại rượu, bia năm 2019 “Sửa đổi, bổ sung Khoản 8 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ” - là nguyên nhân trực tiếp của vụ tai nạn giao thông.
Do vậy, bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 18/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu truy tố là có căn cứ pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy:
Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhưng do quá tự tin nên đã không đảm bảo các nguyên tắc an toàn khi tham gia giao thông dẫn đến gây tai nạn. Hành vi của Trần Minh T không chỉ gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ, mà còn gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của người khác. Do vậy, cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả; quá trình điều tra đại diện gia đình bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự, tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; gia đình bị cáo có công cách mạng (ông nội được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba) nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xét bị cáo Trần Minh T có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên căn cứ Điều 54 của Bộ luật này, Hội đồng xét xử quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo. Mặt khác, Trần Minh T có nhân thân tốt và nơi cư trú rõ ràng; bị cáo hiện là lao động chính trong gia đình có 04 con nhỏ (có 01 con đang dưới 36 tháng tuổi) nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ răn đe, giáo dục, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục làm việc để nuôi dạy các con.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo pháp luật của anh Lê Văn D xác nhận gia đình đã nhận bồi thường xong, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số: 510171003437 ghi tên Trần Minh T, do Sở giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 07/4/2017 không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 đĩa CD-R bên trong lưu trữ 01 đoạn video ghi lại một phần diễn biến vụ tai nạn giao thông là chứng cứ của vụ án nên cần tiếp tục lưu trữ tại hồ sơ vụ án.
- Đối với xe ôtô biển kiểm soát 43A-491.81 và các giấy tờ liên quan, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 08/CSĐT ngày 11/01/2022 và Quyết định xử lý vật chứng số: 60/CSĐT ngày 08/10/2021 trả lại tài sản và giấy tờ cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với xe môtô biển kiểm soát 43K6-9218 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 43K6-9218 số: A0100581 có nguồn gốc là của anh Ngô Văn H đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Năm 2008 anh H bán xe mô tô này kèm giấy chứng nhận đăng ký xe cho một người khác không nhớ rõ lai lịch. Quá trình điều tra, anh Lê Văn H1 khai năm 2018 anh H1 mua lại xe mô tô này tại một cửa hàng bán xe máy cũ không rõ địa chỉ tại địa bàn quận L. Đến khoảng giữa năm 2020, anh H1 cho anh Lê Văn D mượn xe này để làm phương tiện đi lại và sau đó bị tại nạn. Do hiện chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của xe môtô và giấy đăng ký xe nói trên nên cần tiếp tục giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý sau.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu và người bào chữa cho bị cáo về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo cũng như về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng là phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo Trần Minh T phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: bị cáo Trần Minh T phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trần Minh T 02 (Hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (Bốn) năm, kể từ ngày tuyên án (ngày 29 tháng 3 năm 2022).
Giao Trần Minh T về nơi bị cáo đang cư trú là Uỷ ban nhân dân phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng để tiếp tục giám sát và giáo dục. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án Hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Trần Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
Trả cho Trần Minh T 01 (một) giấy phép lái xe ô tô hạng B2, số 510171003437 ghi tên Trần Minh T, do Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 07/4/2017.
(Vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 11/3/2022).
Tiếp tục lưu trữ tại hồ sơ vụ án: 01 đĩa CD-R bên trong lưu trữ 01 đoạn video ghi lại một phần diễn biến vụ tai nạn giao thông.
Giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Liên Chiểu tiếp tục tạm giữ, điều tra và xử lý đối với xe môtô biển kiểm soát 43K6-9218 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số: A0100581
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 20/2022/HSST
Số hiệu: | 20/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về