TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 18/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2024/TLST-HS, ngày 07 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/ QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Vương Đình T, sinh ngày 09 tháng 02 năm 1993 tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm A, xã V, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Đình B và bà Trần Thị M; họ và tên vợ: Trần Thị H; có 03 con; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 05/QĐ-XPHC, ngày 18/01/2016 của Công an huyện Đ, tỉnh Nghệ An đã xử phạt Vương Đình T số tiền 2.000.000 đồng về hành vi Đánh bạc và Tàng trừ trái phép chất ma túy, đã nộp phạt ngày 18/01/2016; bị cáo không bị bắt, tạm giữ, tạm giam, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.
- Bị hại: Ông Phan Văn S, sinh năm 1963; địa chỉ: Khối H, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An (đã chết).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964; địa chỉ: Khối H, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An; là vợ của bị hại; vắng mặt.
2. Chị Phan Thị N1, sinh năm 1986; địa chỉ: Khối H, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An; là con đẻ của bị hại; vắng mặt.
3. Chị Phan Thị L, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; là con đẻ của bị hại; vắng mặt.
4. Anh Phan Văn C, sinh năm 1990; địa chỉ: Khối H, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An; là con đẻ của bị hại; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị N, chị Phan Thị N1, chị Phan Thị L: Anh Phan Văn C, sinh năm 1990; địa chỉ: Khối H, thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An; là người đại diện theo ủy quyền tại văn bản ủy quyền ngày 13/11/2023; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty TNHH T3; địa chỉ: K, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Đức L1, sinh năm 1999; địa chỉ: KĐT V, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; chức vụ: Phó Giám đốc; là người đại diện của Công ty TNHH T3 tại Quyết định số 01-2021 QĐ/CTY, ngày 02/01/2022; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 27/10/2023, Vương Đình T điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-007.xx, kéo theo rơ mooc 37R-016.xx đi trên đường Q, khi đi đến ngã ba H (km 24+600, quốc lộ D, đoạn giao nhau giữa đường Q và quốc lộ D thuộc xóm A, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An thì điều khiển xe chuyển hướng sang phải để đi vào đường quốc lộ 46A. Do chuyển hướng không đảm bảo an toàn nên đã va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen, biển kiểm soát 37N9-50xx do ông Phan Văn S điều khiển chạy trên đường quốc lộ 46A theo hướng thành phố V - thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An, dẫn đến hậu quả ông S tử vong.
Tại bản Kết luận giám định tử thi số 93/KLGĐTT-TTPY ngày 22/11/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh N, kết luận nguyên nhân chết của ông Phan Văn S như sau:
1. Các kết quả chính: Biến dạng hoàn toàn đầu, mặt, tổ chức não thoát ra ngoài; gãy kín xương đòn bên phải; ấn lạo xạo xương vùng ngực; rách da lộ tổ chức gân cơ 1/3 trên ngoài cẳng tay bên phải; gãy hở khuỷu tay bên phải.
2. Nguyên nhân chết: Do suy hô hấp, suy tuần hoàn/đa chấn thương, chấn thương sọ não.
Tại bản kết luận giám định dấu vết cơ học số 336/KL-KTHS (DVCH) ngày 06/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh N, kết luận:
1. Ngay trước thời điểm xảy ra tai nạn, xe mô tô biển kiểm soát 37N9-50xx di chuyển trên đường Quốc lộc 46A theo hướng từ thành phố V đi thị trấn N. Xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-007.xx kéo theo rơ móoc 37R-016.xx di chuyển theo hướng từ phải sang trái, từ sau ra trước so với chiều di chuyển của xe mô tô biển kiểm soát 37N9-50xx.
2. Vị trí va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện:
- Trên hiện trường: Ở phần đường bên phải đường Quốc lộ 46A theo hướng từ thành phố V đi thị trấn N.
- Trên hai phương tiện:
+ Trên xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-007.xx: Ở mặt ngoài ốp bảo vệ đèn tín hiệu phía trước bên trái.
+ Trên xe mô tô biển kiểm soát 37N9-50xx: Ở mặt ngoài núm tay lái bên phải.
3. Không đủ cơ sở xác định tốc độ di chuyển của xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 37H-007.xx kéo theo rơ moóc 37R-016.xx và xe mô tô biển kiểm soát 37N9- 50xx ngay trước thời điểm xảy ra tai nạn.
Bản cáo trạng số 24/CT-VKSNĐ, ngày 06/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An truy tố Vương Đình T về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: về tội danh: Bị cáo Vương Đình T phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ", về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vương Đình T mức án từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng, về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về bồi thường dân sự: Các bên đã thỏa thuận bồi thường dân sự, đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên trả lại cho bị cáo Vương Đình T 01 (một) giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 4001300015xx mang tên Vương Đình T. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là sai. Bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo được hưởng án treo và được nhận lại Giấy phép lái xe.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về xác định những người tham gia tố tụng: Bị hại ông Phan Văn S đã chết nên những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp. Bố mẹ đẻ của ông Phan Văn S là ông Phan Văn T1 và bà Lê Thị E đã chết nên người đại diện hợp pháp của bị hại gồm: Bà Nguyễn Thị N (là vợ); chị Phan Thị N1, chị Phan Thị L và anh Phan Văn C (là con đẻ).
[3]. Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt; chị Phan Thị N1 và chị Phan Thị L đã ủy quyền cho anh Phan Văn C. Anh Phan Văn C vắng mặt nhưng đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ vụ án; đại diện hợp pháp của Công ty TNHH T3 vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[4]. Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Vương Đình T đã khai nhận hành vi của mình giống như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở đề kết luận: Vào khoảng 9 giờ 00 phút, ngày 27/10/2023, tại km 24+600, quốc lộ D, đoạn giao nhau giữa đường Q và quốc lộ D thuộc xóm A, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, Vương Đình T là người có Giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe ô tô đầu kéo mang biển kiểm soát 37H- 007.xx, kéo theo rơ moóc 37R-016.xx của Công ty TNHH T3 di chuyển từ đường quốc lộ 46B sang đường Q. Do bị cáo chuyển hướng xe không đảm bảo quy tắc giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật Giao thông đường bộ nên đã va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen, biển kiểm soát 37N9-50xx do ông Phan Văn S điều khiển chạy trên đường Quốc lộc 46A theo hướng thành phố V - thị trấn N là dẫn đến hậu quả ông Phan Văn S tử vong. Hành vi của Vương Đình T đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 24/CT-VKSNĐ, ngày 06/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An truy tố Vương Đình T là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[5]. Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm an toàn giao thông, gây thiệt hại về tính mạng cho người khác nên phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có ông nội Vương Đình T2 có công với cách mạng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngày 18/01/2016, bị cáo bị Công an huyện Đ, tỉnh Nghệ An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ; có nơi cư trú rõ ràng, cụ thể; có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được cải tạo tại địa phương như đề nghị của đại diện Viện kiềm sát nhân dân huyện Nam Đàn cũng không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường trách nhiệm dân sự, đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì thêm; đại diện hợp pháp của Công ty TNHH T3 không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô mang nhãn hiệu Honda, màu đen, biển kiểm soát 37N9-50xx của ông Phan Văn S; 01 (một) giấy biên nhận thế chấp giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông của xe ô tô đầu kéo 37H-007.xx, kèm theo giấy đăng ký xe (bản sao) của Công ty TNHH T3; 01 (một) giấy biên nhận thế chấp giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông của sơ mi rơ moóc xi téc 37R-016.xx, kèm theo giấy đăng ký rơ moóc, sơ mi rơ moóc (bản sao) của Công ty TNHH T3; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số EA 1517019 của xe ô tô đầu kéo 37H-007.xx có giá trị đến ngày 04/01/2024; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số EA 2208983 của sơ mi rơ moóc 37R-016.xx có giá trị đến ngày 06/8/2024; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe ô tô đầu kéo 37H-007.xx; 01 (một) giấy phép lái xe mô tô hạng A1 số 4000980144xx mang tên Phan Văn S, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với 01 (một) giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 4001300015xx của Vương Đình T hiện có tại hồ sơ vụ án là tài liệu có giá trị chứng minh tội phạm. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung nên tuyên trả lại Giấy phép lái xe trên cho bị cáo.
[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vương Đình T 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Vương Đình T cho UBND xã V, huyện Đ, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo được hưởng án treo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự, nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 89, điểm c khoản 1 Điều 90, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên trả lại cho bị cáo Vương Đình T 01 (một) giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 4001300015xx mang tên Vương Đình T (Tài liệu này hiện có tại hồ sơ vụ án).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vương Đình T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 18/2024/HS-ST
Số hiệu: | 18/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về