TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH H
BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Trong ngày 29 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh H xét xử trực tiếp, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2024/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2024; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2024 đối với:
* Bị cáo: Hà Văn B, sinh ngày 25/8/1990; Tên gọi khác: không; Hộ khẩu thường trú: Bản D, xã H, huyện P, tỉnh S; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: lớp 8/12. Dân tộc: Dao; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Hà Văn Ph và bà Phan Thị T; vợ Hoàng Thị L; có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
* Bị hại: Anh Đinh Văn N, sinh năm 1988 (đã chết); địa chỉ: thôn H, xã L, huyện T, tỉnh N.
Đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại: Anh Đinh Văn Q, sinh năm 1984; địa chỉ: F13/3Q/5, tổ 7, ấp 6A, xã V, huyện B, Thành phố H. Vắng mặt, anh Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Bùi Văn M, sinh năm 1974; địa chỉ: tiểu khu 66, thị trấn N, huyện M, tỉnh S. Vắng mặt, anh M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt - Chị Bùi Thị H, sinh năm 1989; HKTT: thôn H, xã L, huyện T, tỉnh N; chỗ ở: Số 4, ngõ 29, thôn T, xã C, huyện T, HN. Vắng mặt, chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
* Người làm chứng:
- Anh Đỗ Mạnh K, sinh năm 1993; địa chỉ: thôn T, xã Đ, huyện V, tỉnh H; Vắng mặt
- Ông Phạm Văn P, sinh năm 1971; địa chỉ: thôn A, xã H, huyện K, tỉnh H; Vắng mặt
- Bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1978; địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh H; Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hà Văn B có giấy phép lái xe hạng FC, lái xe thuê cho anh Bùi Văn M. Ngày 20/7/2023, B được anh M giao điều khiển xe ô tô đầu kéo biển số 26C-097.xx kéo theo rơ mooc biển số 26R-005.xx chở ngô từ huyện M về giao hàng cho công ty cám HVC có trụ sở trong khu công nghiệp PN, tỉnh H. Sau khi giao hàng xong, anh M bảo B điều khiển xe ô tô trên đi đến tỉnh N để chở xi măng về S. B điều khiển xe ô tô kéo theo rơ moóc trên đi trên Quốc lộ 39 hướng P đi thành phố H, đến khoảng 17 giờ 10 phút cùng ngày, xe đến km 9+900 vòng xuyến giao nhau giữa quốc lộ 39 với đường nối hai cao tốc HN-HP và CG-NB thuộc địa phận thôn T, xã L, huyện Y, tỉnh H, B thấy phía trước bên trái xe ô tô của B điều khiển có chiếc xe ô tô con màu đen đang đi ôm sát vòng xuyến nên B điều khiển xe ô tô đi sang bên phải để vượt chiếc xe ô tô con, khi đang vượt thì phía trước đầu xe bên phải xe ô tô do B điều khiển đã va vào xe mô tô biển số 18E1-342.xx do anh Đinh Văn N điều khiển đi phía trước cùng chiều làm anh N và xe mô tô đổ ngã xuống đường, hàng bánh lốp thứ hai bên phải tính từ đầu xe ô tô của B chèn qua người anh N, xe mô tô của anh N mắc vào phía trước đầu xe ô tô của B điều khiển, bị đẩy đi khoảng 450m thì B dừng xe lại. Hậu quả: anh Đinh Văn N chết tại chỗ, xe đầu kéo và xe mô tô bị hư hỏng nhẹ.
Khám nghiệm hiện trường, xác định: Hiện trường nơi xảy ra tai nạn giao thông tại Km 09+900 Quốc lộ 39 tại vòng xuyến giao nhau giữa Quốc lộ 39 và đường nối 02 cao tốc HN-HP và cao tốc CG-NB, mặt đường trải nhựa tương đối bằng phẳng tầm nhìn không bị che khuất.
Bản Kết luận giám định tử thi số 157/KLGĐTT-PC09 ngày 02/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: Anh Đinh Văn N chết do chấn thương sọ não, vỡ xương hộp sọ, trên người đa chấn thương.
Xe ôtô đầu kéo biển số 26C-097.xx, rơ mooc biển số 26R-005.xx đăng ký xe mang tên anh Bùi Văn M địa chỉ tiểu khu 66, thị trấn N, huyện M, tỉnh S. Khám nghiệm xe ô tô ngày 21/7/2023 xác định, xe bị hư hỏng nhẹ; đầu thanh cản và mặt bên thành hòm đựng đồ phía bên phải còn để lại nhiều chất dịch màu hồng.
Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nozza màu đen, biển số 18E1 -342.xx đăng ký xe mang tên chị Bùi Thị H sinh năm 1989 ở thôn A, xã T, huyện T, tỉnh N. Khám nghiệm xe mô tô ngày 21/7/2023 xác định xe bị hư hỏng, có nhiều vết mài mòn.
Tại bản Kết luận giám định số 179 và 180 cùng ngày 21/7/2023, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: Không tìm thấy ma túy, Ethanol (cồn) trong mẫu máu ghi thu của tử thi Đinh Văn N.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y quản lý thiết bị giám sát hành trình tích hợp đầu ghi camera của xe ô tô đầu kéo biển số 26C-097.xx kéo theo rơ mooc biển số 26R-005.xx do anh Bùi Văn M giao nộp. Tại bản kết luận giám định số 229/KL-KTHS(KTS) ngày 24/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: trích xuất được dữ liệu vận tốc của xe ô tô do B điều khiển trong khoảng thời gian từ 17 giờ 10 đến 17 giờ 15 ngày 20/7/2023, vận tốc lớn nhất ghi nhận được là 45 km/h, vận tốc nhỏ nhất ghi nhận được là 0 km/h.
Quá trình điều tra xác định: Anh Đinh Văn N có giấy phép lái xe mô tô hợp lệ; Tại thời điểm xảy ra va chạm, Hà Văn B điều khiển xe không có Ethanol (Cồn) và ma túy trong cơ thể.
Quá trình điều tra, bị cáo Hà Văn B đã thành khẩn khai nhận hành vi của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Ngày 04/8/2023, Hà Văn B cùng anh Bùi Văn M (chủ xe ô tô) đã tự nguyện bồi thường cho gia đình anh Đinh Văn N số tiền 270.000.000đồng (hai trăm bảy mươi triệu đồng). Anh Đinh Văn Q là đại diện gia đình đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự, đồng thời có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Hà Văn B.
Về xử lý vật chứng:
+ Đối với chiếc xe ôtô đầu kéo, biển số 26C-097.xx kéo theo rơ mooc biển số 26R-005.xx, quá trình điều tra làm rõ là tài sản hợp pháp của anh Bùi Văn M. Ngày 11/8/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Y đã trả lại cho anh Bùi Văn M. Anh M đã nhận lại tài sản không có yêu cầu, đề nghị gì.
+ Đối với chiếc xe mô tô biển số 18E1 -342.xx, quá trình điều tra làm rõ là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị H (là vợ anh N). Ngày 11/8/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Y đã trả lại cho anh Đinh Văn Q (đại diện ủy quyền của chị H). Anh Q đã nhận lại tài sản không có yêu cầu đề nghị gì.
Bản Cáo trạng số 17/CT-VKS-YM ngày 26/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo Hà Văn B về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Hà Văn B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt thấp nhất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y giữ nguyên quan điểm như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, tính chất mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố: bị cáo Hà Văn B phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hà Văn B từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn có quan điểm về vật chứng, trách nhiệm dân sự và án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo ăn năn hối hận về hành vi của mình, đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt đại diện gia đình bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; bị cáo và đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đều có quan điểm đề nghị HĐXX xét xử vắng mặt những người này. HĐXX xét thấy người vắng mặt đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến kết quả xét xử, cũng như quyền lợi của họ nên HĐXX căn cứ các Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt những người trên.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của đại diện bị hại anh Đinh Văn Q, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Bùi Văn M và chị Bùi Thị H, những người làm chứng cùng các kết luận giám định, biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 17 giờ 10 phút ngày 20/7/2023, tại km 9+900 gầm cầu vượt, vòng xuyến giao giữa Quốc lộ 39 và đường nối 02 cao tốc HN-HP và CG-NB, thuộc địa phận thôn T, xã L, huyện Y, tỉnh H, Hà Văn B điều khiển xe ô tô đầu kéo, biển số 26C-097.xx kéo theo rơ mooc biển số 26R-005.xx đi trên quốc lộ 39, khi đến vòng xuyến nơi đường giao nhau B không giảm tốc độ mà tăng ga điều khiển xe vượt bên phải xe ô tô cùng chiều phía trước, dẫn đến phần đầu xe do B điều khiển đã va vào xe mô tô biển số 18E1-342.xx do anh Đinh Văn N điều khiển cùng chiều phía trước làm anh N và xe mô tô đổ ngã xuống đường, anh N bị bánh xe thứ hai của hàng bánh bên phải chèn qua người dẫn đến tử vong. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển nhưng khi tham gia giao thông thực hiện việc chuyển hướng xe để vượt xe cùng chiều phía trước ở nơi không được phép vượt dẫn đến tai nạn giao thông, hậu quả làm chết 01 người. Hành vi của bị cáo đã vi phạm điểm d khoản 5 Điều 14 uật giao thông đường bộ và đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự, nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo về hành vi và tội danh như nêu trên là có cơ sở và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo là coi thường pháp luật, không chấp hành đầy đủ các quy định của Luật Giao thông đường bộ, không tuân thủ các nguyên tắc an toàn khi tham gia giao thông dẫn đến hậu quả nghiêm trọng làm chết người. Do đó cần xét xử nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục cải tạo bị cáo đồng thời răn đe và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, gia đình bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, ông nội bị cáo tham gia kháng chiến được tặng huy chương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt: Sau khi cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời cũng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.
Về hình phạt bổ sung: Hình phạt chính của bị cáo là hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: đại diện bị hại đã nhận bồi thường và không có yêu cầu đề nghị gì khác nên không đặt ra xem xét.
[7]. Về biện pháp tư pháp: Trả lại bị cáo Giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 010120013129 do Sở Giao thông vận tải tỉnh S cấp ngày 28/09/2020 mang tên Hà Văn B.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136 B TTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.
2. Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
3. Xử phạt: Bị cáo Hà Văn B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
4. Về vật chứng: Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại bị cáo Hà Văn B Giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 010120013129 do Sở Giao thông vận tải tỉnh S cấp ngày 28/09/2020 mang tên Hà Văn B.
5. Về án phí: Bị cáo Hà Văn B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 17/2024/HS-ST
Số hiệu: | 17/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vũ Quang - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về