TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 171/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2023 và các quyết định hoãn phiên tòa, thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa đối với:
Bị cáo Nguyễn Thanh T, sinh năm 1969. ĐKHKTT: Số H K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội. Chỗ ở hiện nay: P Tòa L, khu đô thị N, phường Á, thành phố H, tỉnh D. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Trung S và bà Đỗ Thị B. Bị cáo có 01 con. Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
* Bị hại:
- Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1978.
- Cháu Vũ Tiến A, sinh ngày 29/10/2011 (đã chết)
Người đại diện hợp pháp của cháu Vũ Tiến A:
+ Anh Vũ Xuân N, sinh năm 1976.
+ Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1978.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị T1: Anh Vũ Xuân N, sinh năm 1976.
Đều có địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện T, tỉnh D
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thanh T có giấy phép lái xe ô tô hạng B2 do Sở Giao thông vận tải thành phố H cấp ngày 10/01/2014 có giá trị đến ngày 10/01/2024. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 24/01/2023, T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, BKS 30E-xxxxx đi từ xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên về nhà tại phường Á, thành phố H, tỉnh D. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe đi đến đoạn km 56 + 700 Quốc lộ E (theo hướng Hà Nội đi Hải Phòng) thuộc địa phận phường N, thành phố H, tỉnh D. Tại đây đoạn đường được thiết kế cong sang trái theo hướng đi. Mặt đường rộng 10,9m chia thành ba làn đường bằng vạch sơn nét liền và vạch sơn nét đứt; làn đường tiếp giáp với giải phân cách trung tâm dành cho phương tiện là xe ô tô (làn số 1); làn số 2 dành cho phương tiện xe ô tô và xe mô tô; làn số 3 dành cho phương tiện xe mô tô và xe thô sơ, xe máy. Phía trái hiện trường là giải phân cách rộng 1,4m được trồng cây xanh, rào thép, cột đèn chiếu sáng. Phía phải hiện trường là tấm tôn sóng, mái ta luy âm của dốc cầu P. T điều khiển xe ô tô di chuyển trên làn đường thứ 2 với tốc độ khoảng 60km/h. Do không chú ý quan sát và ngủ gật khi điều khiển phương tiện, T đã để phần đầu xe bên phải của xe ô tô do T điều khiển va chạm vào phía sau xe mô tô BKS 34B2-xxxxx do chị Nguyễn Thị T1 điều khiển chở cháu Vũ Tiến A đang lưu thông phía trước cùng chiều làm xe mô tô bị đồ, chị T1 và cháu Tiến A ngã xuống ta luy âm của dốc cầu P. Hậu quả: Cháu Tiến A tử vong tại hiện trường; chị T1 bị thương tích; xe mô tô bị hư hỏng hoàn toàn.
Tại kết luận giám định pháp y về tử thi số 19/GĐPY ngày 30/01/2023, Phòng K Công an tỉnh H kết luận: Nguyên nhân chết của cháu Vũ Tiến A là do chấn thương sọ não (vỡ xương vòm sọ phức tạp). Tổn thương này do vật tày gây nên là phù hợp.
Tại kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 133/KLTTCT ngày 18/4/2023, Trung tâm P kết luận chị Nguyễn Thị T1 bị thương tích như sau:
- Chấn thương sọ mặt gây tụ máu ngoài màng cứng vùng trán trái, vỡ xương trán trái và cánh lớn xương bướm trái, vỡ thành xoang hàm trái. Hiện ổn định, không có di chứng, không còn hình ảnh tổn thương nội sọ, vỡ xương trán trái diện 50mm.
- Chấn thương ngực gây tràn dịch- tràn khí phổi trái, gãy 1/3 giữa thân xương đòn trái, gãy cung sau xương sườn 2 bên, gãy cung sau bên trên xương sườn 5, 6, 7, 8, 9, 10 bên trái, gãy xương vai trái. Hiện ổn định, còn phương tiện kết hợp xương đòn trái, gãy cũ xương sườn 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 bên trái, gãy cũ xương vai trái.
- Chấn thương bụng gây chấn thương lách độ II, được điều trị nội khoa. Hiện ổn định.
- Chấn thương gây vỡ thành xương ổ mắt hai bên. Hiện thị lực mắt trái 8/10, mắt phải 2/10.
- 06 sẹo vết thương vùng mặt ở trán, mi trên gò má phải, đầu ngoài cung lông mày phải, cung mày trái, môi trên bên phải kích thước trung bình và nhỏ và 04 sẹo mổ, vết thương phần mềm vùng xương đòn trái, gối phải, mu bàn tay phải, thái dương đỉnh phải kích thước trung bình và nhỏ.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể của chị T1 là 72%.
Tại kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐGTS ngày 09/5/2023, Hội đồng đình giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố H kết luận: Xe mô tô BKS 34B2-xxxxx, nhãn hiệu Honda SH mode trị giá 13.705.000đ.
Quá trình điều tra: Bị cáo khai nhận thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đại diện bị hại xác nhận đã được bị cáo bồi thường các khoản thiệt hại với tổng số tiền 500.000.000đ và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô BKS 34B2-xxxxx cho gia đình chị T1; trả lại xe ô tô BKS 30E-xxxxx cho bị cáo T và thu giữ của bị cáo 01 giấy phép lái xe.
Tại Cáo trạng số 110/CT-VKSTPHD ngày 26/6/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh D truy tố Nguyễn Thanh T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đại diện bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên toà: Bị cáo trình bày do không chú ý quan sát và ngủ gật nên xe ô tô do bị cáo điều khiển đã va chạm vào xe mô tô của chị T1 dẫn đến cháu Tiến A tử vong, chị T1 bị thương tích, xe mô tô bị hư hỏng. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại và được gia đình bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, xin giảm nhẹ hình phạt để cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX: Tuyên bố Nguyễn Thanh T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS; điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của U. Xử phạt Nguyễn Thanh T từ 21 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 42 đến 48 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND phường Á giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi của bị cáo:
[1.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, các kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 24/01/2023, tại km 56 + 700 đường Q, phường N, thành phố H, tỉnh D, Nguyễn Thanh T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, BKS 30E-xxxxx theo hướng Hà Nội đi Hải Phòng. Do không chú ý quan sát nên T đã để phần đầu xe bên phải xe ô tô do T điều khiển va chạm vào phía sau xe mô tô BKS 34B2- xxxxx do chị Nguyễn Thị T1 điều khiển chở cháu Vũ Tiến A lưu thông phía trước cùng chiều làm xe mô tô bị đổ, chị T1 và cháu Tiến A bị ngã xuống ta luy âm của dốc cầu P. Hậu quả: Cháu Tiến A chết do chấn thương sọ não; chị T1 bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 72%; xe mô tô bị hư hỏng hoàn toàn.
[1.2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng khi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông đã không tuân thủ các quy định về an toàn giao thông, không chú ý quan sát là vi phạm quy định tại khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ và gây tai nạn làm 01 người chết, 01 người bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 72% nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 260 BLHS. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố D truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý đối với bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 500.000.000đ; được đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết bắt bị cáo phải cách ly xã hội mà áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, giữa bị cáo với gia đình bị hại đã tự thỏa thuận và bồi thường xong các khoản thiệt hại là 500.000.000đ. Các bên không yêu cầu giải quyết việc bồi thường nên HĐXX không xem xét.
[4] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, BKS 30E-xxxxx cho bị cáo T; trả lại xe mô tô BKS 34B2-xxxxx cho gia đình bị hại là phù hợp. Cần trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe.
[5] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[6] Về tố tụng và các vấn đề khác: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của U.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
2. Xử phạt Nguyễn Thanh T 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao Nguyễn Thanh T cho UBND phường Á, thành phố H, tỉnh D giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Á trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, Nguyễn Thanh T phải thực hiện các nghĩa vụ của người được hưởng án treo theo quy định tại Điều 87 Luật thi hành án hình sự. Nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe số 010967002649 do Sở Giao thông vận tải thành phố H cấp ngày 10/01/2014 mang tên Nguyễn Thanh T (hiện đang lưu giữ tại hồ sơ vụ án).
4. Buộc Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 171/2023/HS-ST
Số hiệu: | 171/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về