Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 140/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 140/2022/HS-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 07/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 142/2022/HSST ngày 15/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2022/QĐXXST – HS ngày 25/8/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh Ng, sinh năm 1996; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn T3, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Văn hóa: 06/12; Con ông: Trần Văn S, sinh năm 1961; Con ba: Phạm Thị Y, sinh năm 1962; Gia đinh co 04 anh em, bị cáo là thứ 4; Vợ: Tô Thị Đ, sinh năm 2004; Con: Có 01 con sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1966. (Đã chết) Địa chỉ: Số nhà 976, đường L, tổ dân phố K, phường D, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

Đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1970.

2. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1994.

3. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 2001.

Cùng địa chỉ: Số nhà 976, đường L, tổ dân phố K, phường D, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

4. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Xóm L, xã T, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

(Anh Nguyễn Văn M, chị Nguyễn Thị N, Chị Nguyễn Thị H ủy quyền cho Bà Nguyễn Thị D tham gia tố tụng – Bà D vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1975. (Vắng mặt) Địa chỉ: Đường Nguyễn Xuân L, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

2. Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và xây dựng D. (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu 2, thị trấn K, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Đại diện theo pháp luật: Bà Vũ Thị Ngọc B, chức vụ: Giám đốc.

* Người làm chứng:

1. Anh Vũ Trung D, sinh năm 1984. (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T3, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Trần Anh T, sinh năm 1983. (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 5, phường T, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh Ng, sinh năm 1996 trú tại Thôn T3, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang có giấy phép lái xe hạng C số 240176022297 do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Bắc Giang cấp ngày 09/6/2020. Nghĩa lái xe tải thuê cho Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ và Xây dựng D có địa chỉ tại khu 2, thị trấn K, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Ngày 14/4/2022, Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1975 trú tại thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang là chủ xe ô tô tải nhãn hiệu CNHTC biển kiểm soát 98H-002.00 thuê Trần Thanh Ng lái chiếc xe trên chở đất từ cổng UBND huyện Lạng Giang đi đổ tại bãi đất thuộc địa bàn thành phố Bắc Giang. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Ng điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 98H-002.00 chở đất đến đổ tại bãi đất phía sau Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang ở trên đường Trường Chinh, thành phố Bắc Giang. Sau khi đổ đất xong, Ng điều khiển xe đi trên đường Trường Chinh ra hầm chui đường Nguyễn Thị Minh Khai rồi rẽ phải đi trên đường gom ven cao tốc Hà Nội - Bắc Giang theo hướng đi về Lạng Giang. Đến khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày khi đi đến gần ngã ba giao nhau giữa đường gom dân sinh với đường bê tông đi vào tổ dân phố Giáp Nguột, phường Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang do đường vắng phương tiện đi lại nên Ng không giảm tốc độ mà điều khiển xe đi thẳng ở giữa đường. Lúc này, Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1966, trú tại số nhà 976, đường L, tổ dân phố K, phường Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 98F8 - 3932 đi từ hướng tổ dân phố G, phường D, thành phố Bắc Giang ra đường gom dân sinh. Khi Ng điều khiển xe đi đến ngã ba giao nhau giữa đường gom dân sinh và đường đi vào tổ dân phố G thì xe máy của ông D đi đến phía trước đầu xe ô tô tải do Ng điều khiển. Ng phanh xe và đánh lái xe ô tô sang bên trái để tránh nhưng do khoảng cách gần nên phần đầu xe ô tô đâm vào ngang xe mô tô do ông Diện điều khiển làm ông D bị ngã văng về phía trước. Hậu quả ông D bị thương nặng được anh Vũ Trung D, sinh năm 1984 trú tại thôn T3, xã T, huyện Lạng Giang đưa vào Bệnh viện Đa khoa chất lượng cao Hà Nội - Bắc Giang cấp cứu đến 20 giờ 20 phút cùng ngày thì chết.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường xảy ra vụ tai nạn là khu vực ngã ba đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang giao với đường đi tổ dân phố Gthuộc địa phận tổ dân phố Giáp Nguột, phường Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

Đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang là đường hai chiều, mặt đường được trải nhựa bằng phẳng rộng 11 mét, ở giữa có vạch kẻ sơn màu vàng dạng nét đứt, chia thành 02 (hai) chiều đường xe chạy ngược chiều. Trên đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang hướng từ đường Nguyễn Thị Minh Khai đi Quốc lộ 31 có cắm biển cảnh báo nguy hiểm ký hiệu W.207B.

Đường đi tổ dân phố Glà đường hai chiều, mặt đường được trải nhựa bằng phẳng rộng 10,5 mét.

Chọn cột đèn đường số TCS2/L2-51A bên trái đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang và mép phải đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang lần lượt là điểm mốc và mép đường chuẩn. Bên phải, bên trái đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang được tính từ đường Nguyễn Thị Minh Khai đi Quốc lộ 31.

(1) Xe ô tô biển số 98H-002.00 đỗ trên mặt đường, đầu xe chếch hướng Đông Bắc, đuôi xe chếch hướng Tây Nam. Tâm trục bánh trước bên phải cách điểm mốc và mép đường chuẩn lần lượt là 9,9 mét và 5,4 mét. Tâm trục bánh xe thứ ba bên phải (tính từ trước ra sau) cách mép đường chuẩn là 5,3 mét. Tâm trục bánh sau cùng bên phải cách mép đường chuẩn và mép phải đường đi tổ dân phố G, hướng từ tổ Gđi đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang lần lượt là 5,3 mét và 9,4 mét.

(2) Xe mô tô biển số 98F8-3932 đổ bên phải, nằm trên mặt đường. Đầu xe chếch hướng Đông, đuôi xe chếch hướng Tây. Tâm trục bánh trước cách mép đường chuẩn là 6,3 mét. Tâm trục bánh sau cách mép đường chuẩn đường chuẩn và tâm trục bánh trước bên phải xe (1) lần lượt là 7,2 mét và 16,9 mét.

(3) Vết mài trượt mặt đường bám dính chất mầu đen, có chiều hướng Tây Nam - Đông Bắc, kéo dài đến vị trí xe (1) đỗ, vết có kích thước (20,5 x 0,5) mét. Điểm đầu vết cách mép đường chuẩn là 4,4 mét.

(4) Vết mài trượt mặt đường bám dính chất màu đen, có chiều hướng Tây Nam - Đông Bắc, kéo dài đến vị trí xe (1) đỗ, kích thước (17,6 x 0,5) mét. Điểm đầu vết cách mép đường chuẩn và điểm đầu vết (3) lần lượt là 4,5 mét và 4,25 mét.

(5) Vết mài trượt mặt đường bám dính chất màu đen, có chiều hướng Tây Nam - Đông Bắc, kéo dài đến vị trí xe (1) đỗ, kích thước (23,5 x 0,5) mét. Điểm đầu vết cách mép đường chuẩn và điểm đầu vết (3) là 6,3 mét và 2,5 mét.

(6) Vết mài trượt mặt đường bám dính chất màu đen, có chiều hướng Tây Nam - Đông Bắc, kéo dài đến vị trí xe (1) đỗ, kích thước (17,6 x 0,2) mét.

Điểm đầu vết cách mép đường chuẩn là 7 mét.

(7) Vết cày xước và chất lỏng (dạng dầu), có chiều hướng Tây Nam - Đông Bắc, kéo dài đến vị trí xe (2) đổ, kích thước (35,7 x 0,4) mét. Điểm đầu vết cách mép đường chuẩn, điểm đầu vết (5) và điểm đầu vết (6) lần lượt là 6,7 mét; 10,3 mét và 0,9 mét.

(8) Vết mài trượt mặt đường, có chiều hướng Tây Nam - Đông Bắc, kéo dài đến vị trí chất mầu nâu đỏ (nghi máu) có kích thước (6,9 x 0,1) mét. Điểm đầu vết cách điểm mốc và mép đường chuẩn lần lượt là 9,7 mét và 9,35 mét.

(9) Vết chất lỏng mầu nâu đỏ (nghi máu) để lại trên mặt đường, có kích thước (0,8 x 0,6) mét. Tâm vết cách mép đường chuẩn và tâm trục bánh trước bên phải xe (1) lần lượt là 10,7 mét và 7,8 mét.

* Kết quả khám nghiệm tử thi Nguyễn Văn Diện 1. Khám bên ngoài:

Vùng trán: có 02 vết chợt da kích thước (12 x 6) cm và (3 x 1) cm.

Vùng đỉnh trái có vết chợt da kích thước (4 x 1) cm và 01 vết rách da kích thước (6 x 1) cm.

Vùng thái dương trái, mắt trái và má trái có vết chợt da kích thước (13 x 9) cm. Vùng chẩm trái có vết chợt da kích thước (4 x 2) cm.

Vùng mặt: Cung mày phải có vết chợt da kích thước (6 x 3) cm. Sống mũi có đám chợt da kích thước (4 x 3)cm. Má phải có 02 vết chợt da kích thước (3 x 2,5) cm và (3 x 2) cm. Môi trên có vết chợt da kích thước (4 x 2) cm. Cằm có vết bầm tím kích thước (3 x 2) cm.

Vùng ngực, bụng, lưng, mông: Sườn phải và bụng phải có đám chợt da kích thước (27 x 15) cm. Ngực trái có vết chợt da kích thước (10 x 1) cm. Ngực trái ấn ọp ẹp, gãy xương sườn số 3, 4, 5, 6, 7 bên trái. Bụng trái có đám chợt da bầm tím kích thước (27 x 8) cm. Vùng hông trái có đám chợt da bầm tím kích thước (20 x 10) cm. Lưng không thấy dấu vết thương tích.

Tay phải: Mặt sau khuỷu tay phải và 1/3 trên cẳng tay phải có đám chợt da kích thước (17 x 15) cm. Cổ tay phải có vết thương chợt rách da kích thước (13 x 11) cm.

Tay trái: Mặt sau cẳng tay trái có đám chợt da bầm tím kích thước (27 x 14) cm. Cổ tay trái và mu bàn tay trái có đám chợt da bầm tím kích thước (20 x 10) cm.

Chân phải: Mặt sau trong đùi phải và cẳng chân phải có đám bầm tím kích thước (46 x 15) cm. Gối phải có vết chợt da bầm tím kích thước (11 x 6) cm. Mặt trước 1/3 dưới cẳng chân phải có vết chợt da bầm tím kích thước (17 x 5) cm. Mu bàn chân phải có vết bầm tím kích thước (5 x 1) cm và 02 vết chợt da kích thước (1 x 1) cm và (1 x 0,5) cm.

Chân trái: Đùi trái, gối trái và cẳng chân trái có đám chợt da bầm tím kích thước (47 x 20) cm. Mặt ngoài 1/3 giữa đùi trái có đám chợt da bầm tím kích thước (15 x 8) cm.

Bộ phận sinh dục không tổn thương; Hậu môn không thoát phân; Khám kỹ bên ngoài không phát hiện tổn thương nào khác.

2. Khám trong:

Bộc lộ, mở rộng vết thương vùng thái dương trái thấy tụ máu dưới da và cơ thái dương kích thước (11 x 6) cm. Vỡ xương sọ vùng thái dương trái kích thước (5 x 0,5) cm, qua khe xương vỡ thấy máu màu đỏ chảy ra ngoài.

* Kết quả khám nghiệm xe ô tô biển kiểm soát 98H-002.00 Mặt ngoài phía dưới ba đờ sốc, vị trí cách đất 55 cm, cách mép phải 94 cm có vết mài sát, hằn lõm kim loại kích thước (12 x 7) cm, hướng từ trước về sau. Cách dấu vết trên 4 cm về phía bên trái có dấu vết mài trượt sơn kim loại bám dính chất mầu trắng, nâu tím kích thước (26 x 15) cm.

Mặt ngoài dưới ba đờ sốc, vị trí cách đất 55 cm, cách mép trái ba đờ sốc 45 cm có vết mài sát, hằn lõm sơn kim loại, bám dính chất mầu nâu tím trên diện kích thước (10 x 8) cm, hướng từ trước về sau.

Biển số phía trước chùn cong, phần nhựa phía sau biển số vỡ.

Mặt ngoài cản trước có vết mài sát sơn nhựa, nứt vỡ trên diện kích thước (15 x 11) cm, điểm thấp nhất cách đất 94 cm, cách mép trái đầu xe 62 cm.

Ốp nhựa bảo vệ lọc gió, có vết nứt vỡ trên diện kích thước (20 x 24) cm, điểm thấp nhất cách đất 110 cm.

* Kết quả khám nghiệm xe mô tô biển kiểm soát 98F8-3932 Tay lái phía bên phải cong gập từ ngoài vào trong từ trước về sau. Phần đầu tay lái bên phải có vết mài sát cao su kích thước (2,5 x 2) cm.

Ốp nhựa đầu xe, công tơ mét, đèn pha, đèn tín hiệu phía trước vỡ khuyết nhựa, bật dời khỏi xe. Phần đầu tay lái bên trái có vết mài sát cao su, kích thước (4 x 2) cm. Cánh yếm bên trái vỡ khuyết nhựa trên diện kích thước (60 x 27) cm. Mặt ngoài cánh yếm bên phải có vết mài sát nhựa bám dính đất.

Ốp nhựa bảo vệ giảm sóc trước bên trái có vết vỡ, mài sát sơn nhựa trên diện kích thước (14 x 10) cm, hướng từ trái sang phải, bám dính chất mầu nâu xám, dạng sơn, điểm thấp nhất cách đất 58cm.

Đầu phía trên giảm sóc trước bên trái, tại vị trí tương ứng có vết mài sát kim loại bám dính chất mầu nâu xám, dạng sơn kích thước (1,5 x 0,5) cm. Ốp nhựa bảo vệ giảm sóc trước bên phải có vết mài sát sơn nhựa trên diện kích thước (9 x 2,5) cm. Đầu phía dưới giảm sóc trước bên phải và đầu trục bên phải phía trước có vết mài sát sơn kim loại bám dính chất mầu trắng dạng bột đá trên diện kích thước (6,5 x 6) cm. Ốp bảo vệ trục xích líp phía trước gẫy vỡ bật dời khỏi xe. Mặt ngoài bên trái bình xăng có vết mài sát bong tróc, hằn lõm kim loại hướng từ trái sang phải kích thước (23 x 6) cm, điểm thấp nhất cách đất 63 cm. Mặt ngoài giảm sóc phía sau bên trái và mặt ngoài tay xách kim loại vị trí liền kề có vết mài sát, hằn lõm kim loại, bám dính chất mầu nâu xám trên diện (8 x 7) cm. Ốp nhựa phía dưới bình xăng bật dời khỏi xe.

Lốc máy bên phải vỡ khuyết kim loại trên diện kích thước (15 x 15) cm.

Chân phanh, để chân trước bên phải, cần khởi động chân cong, ép sát vào lốc máy, ống xả. Bình ắc quy bật dời khỏi vị trí cố định. Ốp nhựa bảo vệ bên phải bình ắc quy bật dời khỏi xe. Mặt ngoài bên phải tay xách phía sau có vết mài sát kim loại trên diện (6 x 2) cm. Hệ thống đèn phía sau vỡ khuyết nhựa bật dời khỏi xe.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định xác định nguyên nhân chết của Ông Nguyễn Văn D và trưng cầu giám định cơ chế hình thành dấu vết trong vụ tai nạn giao thông.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 4364/22/GĐPY ngày 14/4/2022 của Trung tâm pháp y Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận: Nguyên nhân chết của Ông Nguyễn Văn D là do chấn thương sọ não, vỡ xương sọ, tụ máu, chảy máu nội sọ do tai nạn giao thông.

Kết luận giám định số 911/KL-KTHS ngày 30/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

1. Dấu vết hằn lõm, mài sát sơn, kim loại, bám dính chất màu nâu tím tại mặt ngoài phía dưới ba đờ sốc trước (cách mép trái đầu xe 45cm) của xe ô tô biển số 98H - 002.00, có chiều hướng từ trước về sau phù hợp với dấu vết nứt vỡ, mài sát sơn, nhựa, kim loại tại ốp nhựa bảo vệ và đầu phía trên giảm xóc trước bên trái của xe mô tô biển số 98F8 – 3932. Dấu vết va chạm ở xe mô tô biển số 98F8 - 3932 tại vị trí này có chiều hướng từ trái sang phải.

Dấu vết hằn lõm, mài sát sơn, kim loại, bám dính chất màu nâu tím tại mặt ngoài phía dưới ba đờ sốc trước (cách mép phải đầu xe 94cm) của xe ô tô biển số 98H - 002.00, có chiều hướng từ trước về sau phù hợp với dấu vết hằn lõm, mài sát sơn, kim loại, bám dính chất màu nâu xám tại mặt ngoài giảm xóc sau bên trái xe mô tô biển số 98F8 - 3932. Dấu vết va chạm ở xe mô tô biển số 98F8 - 3932 tại vị trí này có chiều hướng từ trái sang phải.

2. Vị trí va chạm giữa xe ô tô biển số 98H - 002.00 và xe mô tô biển số 98F8 - 3932 trên mặt đường tại trước điểm đầu dấu vết cày xước và dấu bắn ký hiệu số 7, được thể hiện trong biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường, không đủ căn cứ xác định vị trí va chạm thuộc phần đường bên trái hay bên phải theo chiều đường Nguyễn Thị Minh Khai đi Quốc lộ 31.

3. Chiều hướng: tại thời điểm xảy ra va chạm xe ô tô biển số 98H - 002.00 di chuyển theo chiều đường Nguyễn Thị Minh Khai đi đường Quốc lộ 31 va chạm với xe mô tô biển số 98F8 - 3932 di chuyển từ bên phải đến theo chiều chuyển động của xe ô tô biển số 98H - 002.00.

4. Không đủ căn cứ xác định tốc độ của các phương tiện tại thời điểm xảy ra tai nạn qua dấu vết cơ học.

Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở của Trần Thanh Ng có kết quả là 0.000/mg/l. Phiếu kết quả xét nghiệm hóa sinh mã BN 22058484 ngày 22/4/2022 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang xác định định lượng Ethanol (cồn) trong máu của Ông Nguyễn Văn D là 194.8 mg/dl.

Tại bản cáo trạng số 142/CT - VKS ngày 12/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố bị cáo Trần Thanh Ng ra trước Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang để xét xử bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Trần Thanh Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không oan, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai, bị cáo rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Về trách nhiệm dân sự, bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại 200.000.000 đồng, việc bồi thường là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc gì. Ngoài ra, bị cáo còn bị tạm giữ 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C mang tên bị cáo. Nay bị cáo đề nghị được xin lại giấy phép lái xe trên.

Đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt được Hội đồng xét xử công bố lời khai. Bị cáo không có ý kiến gì về những lời khai đó.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thanh Ng phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh Ng từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Ng cho UBND xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Thanh Ng đã tự nguyện bồi thường cho gia đình Ông Nguyễn Văn D số tiền 200.000.000 đồng. Đến nay đại diện hợp pháp của ông D không yêu bị cáo bồi thường gì thêm nên về trách nhiệm dân sự không xem xét trong vụ án này.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Trần Thanh Ng 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C số 240176022297 mang tên Trần Thanh Ng.

Ngoài ra, cần áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Bắc Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình Điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng. Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, việc vắng mặt họ không ảnh hưởng tới kết quả xét xử do họ đã có lời khai trong hồ sơ. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292; Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.

[3] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trần Thanh Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình gây ra. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 14/4/2022, Trần Thanh Ng điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 98H- 002.00 đi trên đường gom dân sinh ven cao tốc Hà Nội, Bắc Giang hướng đi về huyện Lạng Giang. Khi Ng điều khiển xe đi đến ngã ba giao nhau giữa đường gom ven cao tốc Hà Nội - Bắc Giang và đường đi tổ dân phố G, phường D, thành phố Bắc Giang (có biển cảnh báo nguy hiểm) nhưng do không chú ý quan sát, không giảm tốc độ để đảm bảo an toàn nên xe ô tô do Ng điều khiển đã va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 98F8-39.32 do Ông Nguyễn Văn D điều khiển đi từ đường tổ dân phố Gđi ra đường gom cao tốc Hà Nội - Bắc Giang. Hậu quả làm ông Diện bị chết. Hành vi của bị cáo Ng vi phạm Điều 24 Luật giao thông đường bộ và khoản 3 Điều 5 Thông tư 31 ngày 29/8/2019 của Bộ Giao thông vận tải.

[3] Như vậy, hành vi của bị cáo Trần Thanh Ng đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Bị cáo điều khiển xe ô tô nhưng thiếu chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ khi tham giao thông nên đã xảy ra va chạm với Ông Nguyễn Văn D, hậu quả làm ông Diện chết. Do vậy, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa bị đưa ra xét xử hình sự lần nào.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại. Ngoài ra bị cáo còn được đại diện gia đình bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ hình phạt. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

[8] Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, điều luật đã viện dẫn. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Ng là người có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng và việc xảy ra va chạm giao thông có một phần lỗi của ông Diện khi sang đường nhưng thiếu chú ý quan sát nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội.

Do đó, cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Trần Thanh Ng đã tự nguyện bồi thường cho gia đình Ông Nguyễn Văn D số tiền 200.000.000 đồng. Đến nay đại diện hợp pháp của ông D không yêu bị cáo bồi thường gì thêm nên về trách nhiệm dân sự, Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[10] Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Trần Thanh Ng 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C số 240176022297 mang tên Trần Thanh Ng. Đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan gì đến hành vi phạm tội.

[11] Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu CNHTC biển kiểm soát 98H-002.00 qua điều tra xác định là tài sản của Anh Nguyễn Văn Đ nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Anh Nguyễn Văn Đ chiếc xe ô tô biển kiểm soát 98H-002.00 kèm theo giấy tờ xe là có căn cứ.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 98F8- 3932 là tài sản của Ông Nguyễn Văn D (đã chết) được trả lại cho Bà Nguyễn Thị D đại diện hợp pháp của Ông Nguyễn Văn D là có căn cứ.

[12] Ngoài ra cần áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136; các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự để buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh Ng 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Ng cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Trần Thanh Ng 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C số 240176022297 mang tên Trần Thanh Ng.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, buộc bị cáo Ng phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự Báo cho bị cáo có mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 140/2022/HS-ST

Số hiệu:140/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về