TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 139/2022/HS-PT NGÀY 22/07/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 92/2022/TLPT-HS ngày 26 tháng 05 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Minh T, do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HS-ST ngày 20 tháng 04 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
- Bị cáo bị kháng nghị: Nguyễn Minh T, sinh ngày 05-11-1991 tại Long An. Nơi cư trú: Số nhà 01/34, khu phố H, thị trấn T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1960 và bà Đỗ Thị L, sinh năm 1960; vợ Trương Nguyệt C, sinh năm 1990 (đã ly hôn); con một người, sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh T: Luật sư Lê Văn L – Thành viên Đoàn luật sư tỉnh Long An (Có mặt).
- Những người tham gia tố tụng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, không triệu tập:
- Người bị hại: Ông Dương Minh Th, sinh năm 1978. (Đã chết) - Người đại diện hợp pháp của người bị hại:
1. Ông Dương Văn H, sinh năm 1952.
2. Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1951.
Cùng địa chỉ: Ấp CS, xã Tân Lập, huyện T Thạnh, tỉnh Long An.
3. Bà Lê Thị Bích Tr, sinh năm 1979.
4. Em Dương Ngọc Minh Th, sinh năm 2003.
Cùng địa chỉ: Số nhà 25, đường H, Khu phố 1, thị trấn Tân Thạnh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Dương Văn H, bà Huỳnh Thị N và em Dương Ngọc Minh Th: Bà Lê Thị Bích Tr.
- Nguyên đơn dân sự: CA huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật của CA huyện Châu Thành: Ông Mai Thành L – Trưởng CA huyện.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Mai Thành L: Ông Dương Tấn Nh- Phó Đội trưởng Đội CSGT-TT- CA huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
- Bị đơn dân sự:
1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1960.
2. Bà Đỗ Thị L, sinh năm 1959.
Cùng địa chỉ: Số nhà 01/34, khu phố H, thị trấn T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
- Người làm chứng:
1. Ông Đặng Thành D - Đội CSGT-TT - CA huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
2. Ông Ngô Tấn Ph. Địa chỉ: Số nhà 128, khu phố A, thị trấn T, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Minh T có giấy phép lái xe hạng A 1 theo quy định. Trước đó, bị cáo T đã có uống rượu, đến khoảng 20 giờ 45 phút ngày 22-12-2021 bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 62K5-0983 lưu thông trên đường tỉnh 827C theo hướng đi từ xã Dương Xuân Hội đi thị trấn T, huyện Châu Thành. Khi điều khiển xe đi đến km 00 + 600 thuộc khu phố H, thị trấn T, bị cáo điều khiển xe chuyển hướng rẽ trái để định đi vào đường Vành đai trị trấn T. Khi cho xe rẽ trái, bị cáo T không báo tín hiệu để rẽ trái (do đèn tín hiệu bị hỏng). Khi bị cáo T điều khiển xe sang phần đường bên trái so với hướng đi của xe bị cáo được 50 cm thì va chạm với xe mô tô biển số 62A1-000.60 do ông Dương Minh Th là Đội trưởng - Đội Cảnh sát Giao thông Trật tự CA huyện Châu Thành điều khiển đang chở phía sau ông Đặng Thành D, là cán bộ của đội Cảnh sát Giao thông Trật tự CA huyện Châu Thành đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát giao thông trên đường và đang lưu thông theo chiều ngược lại, gây ra tai nạn giao thông. Hậu quả là 02 xe và người ngã trên đường, ông Dương Minh Th bị thương tích nặng, được đưa đi cấp cứu và chết sau đó. Bị cáo T và ông Đặng Thành D bị thương tích nhẹ. 02 xe mô tô bị hư hỏng nặng.
Tại Bản Kết luận Giám định Pháp y về tử thi số 09/2022/KLGĐ ngày 03- 01-2022, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An, đối với nạn nhân Dương Minh Th, kết luận nguyên nhân chết do chấn thương sọ não.
Tại Bản Kết luận Giám định Pháp y về hóa pháp số 860/ĐC.2021 ngày 31- 12-2021, của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Nồng độ Ethanol trong máu của Nguyễn Minh T là 400,22mg/100ml.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐG ngày 14-02-2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Châu Thành kết luận: Giá trị thiệt hại của xe mô tô biển số 62A1-000.60 là 16.300.000 đồng.
Vật chứng trong vụ án thu giữ gồm: 01 xe mô tô biển số 62A1-000.60 và 01 xe mô tô biển số 62K5-0983.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An đã xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 260; Điều 38; Điều 50; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 01 (một) năm tù, thời gian tù được tính từ ngày bị cáo thi hành án.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự và hướng dẫn thi hành phần trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 16-5-2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An kháng nghị một phần đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An về phần áp dụng hình phạt theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Minh T.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An giữ nguyên kháng nghị.
- Bị cáo Nguyễn Minh T thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như án sơ thẩm đã xét xử và không có ý kiến đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An; bị cáo đã nộp 30.000.000 đồng để bồi thường thêm một phần trách nhiệm dân sự tại bản án sơ thẩm đã tuyên tại cơ quan Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An kháng nghị đúng thời hạn và đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự, nên vụ án đủ điều kiện để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung vụ án và kháng nghị: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Minh T tại phiên tòa phúc thẩm thống nhất với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 và nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên về hình phạt, bị cáo T bị truy tố, xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Việc Tòa sơ thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử bị cáo dưới khung hình phạt là có căn cứ, nhưng mức hình phạt 01 năm tù là quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, không đáp ứng được công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này đang ngày càng gia tăng. Mặc dù, tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm biên lai khắc phục một phần trách nhiệm dân sự, tuy nhiên xét về hậu quả do hành vi bị cáo gây ra cho người bị hại là quá lớn. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An. Sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt, xử phạt bị cáo T mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Luật sư thống nhất về tội danh như án sơ thẩm đã xét xử bị cáo. Bị cáo có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo cùng gia đình bồi thường khắc phục cho gia đình người bị hại là 150.000.000 đồng và nay bồi thường thêm số tiền 30.000.000 đồng; bị cáo có nhiều người thân là người có công với đất nước; bản thân bị cáo đang nuôi con nhỏ; đại diện người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, án sơ thẩm đã xét xử và xử phạt bị cáo 01 năm tù là đủ sức răng đe, giáo dục đối với bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên mức hình phạt đồi với bị cáo và không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát.
Bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng: Bị cáo mong muốn được Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thất nhất để bị cáo sớm được về lo giúp cha mẹ trả nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An kháng nghị đúng quy định tại Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý vụ án giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Minh T khai nhận: Bị cáo có giấy phép lái xe hạng A1. Trước đó, trong ngày bị cáo có uống rượu và nghỉ ngơi một thời gian. Đến khoảng 20 giờ 45 phút ngày 22-12-2021 bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 62K5-0983 lưu thông trên đường tỉnh 827C theo hướng đi từ xã Dương Xuân Hội đi thị trấn T, huyện Châu Thành. Khi điều khiển xe đi đến km 00 + 600 thuộc khu phố H, thị trấn T, bị cáo điều khiển xe chuyển hướng rẽ trái để định đi vào đường Vành đai trị trấn T. Khi cho xe rẽ trái, bị cáo T không báo tín hiệu để rẽ trái (do đèn tín hiệu trên xe bị hỏng). Khi bị cáo T điều khiển xe sang phần đường bên trái so với hướng đi của xe bị cáo được 50 cm thì va chạm với xe mô tô biển số 62A1-000.60 do ông Dương Minh Th điều khiển chở phía sau ông Đặng Thành D đang lưu thông theo chiều ngược lại, gây ra tai nạn giao thông. Hậu quả ông Dương Minh Th bị tử vong. Xét lời khai nhận của bị cáo T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà nội dung của án sơ thẩm đã nêu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là xét xử đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, thấy: Bị cáo bị truy tố về tội danh được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự và có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự để áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là có căn cứ. Tuy nhiên, mức hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo 01 năm tù là mức khởi điểm của khung hình phạt liền kề là chưa đánh giá hết tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Hơn nữa về trách nhiệm dân sự bị cáo chỉ mới khắc phục một phần. Do đó, kháng nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An về tăng hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ để chấp nhận. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp biên lai khắc phục thêm một phần trách nhiệm dân sự cho gia đình người bị hại với số tiền 30.000.000 đồng là tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên Hội đồng xét xử ghi nhận xem xét.
[4] Từ những phân tích trên, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, sửa một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo. Không chấp nhận ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giữ nguyên hình phạt như án sơ thẩm đã xét xử.
[5] Do bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị. Tại cấp phúc thẩm về phần trách nhiệm dân sự, tại phiên tòa bị cáo T nộp số tiền 30.000.000 đồng theo Biên lai thu số 0001931 ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Long An, nên ghi nhận để đảm bảo cho việc thi hành án về trách nhiệm dân sự như án sơ thẩm đã tuyên.
[6] Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Minh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An. Sửa một phần của Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2022/HS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An về phần áp dụng hình phạt đối với bị cáo.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 260; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 và Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.
2. Ghi nhận số tiền 30.000.000 đồng do bị cáo Nguyễn Minh T nộp theo Biên lai thu số 0001931 ngày 06-7-2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Long An để đảm bảo cho việc thi hành án phần trách nhiệm dân sự theo bản án sơ thẩm đã tuyên.
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 139/2022/HS-PT
Số hiệu: | 139/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về