Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐNG THÁP

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2023/HSST-QĐ ngày 28 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm: 1989; Tên gọi khác: Không; Nơi sinh: Tỉnh Đồng Tháp; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công chức; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Trần Văn M, sinh năm: 1962; Con bà: Bùi Thị Xuân H, sinh năm: 1963; Vợ: Dương Thị Mỹ P, sinh năm 1989; Gia đình bị cáo có 01 con, sinh năm 2015; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con út trong gia đình; Tiền sự, Tiền án: Không; Bị cáo khởi tố cho tại ngoại (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo T theo yêu cầu là luật sư Huỳnh Thị Quỳnh H1 - Văn phòng L1 thuộc đoàn luật sư tỉnh Đ (có mặt).

* Bị hại:

1. Nguyễn Văn C, sinh năm 1988 (nạn nhân đã chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

Bà Lê Thị H2, sinh năm 1959; Địa chỉ: khóm D, phường A, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp;

Chị Nguyễn Ngọc Á, sinh năm 1988;

Nguyễn Trọng N, sinh năm 2016;

Nguyễn An N1, sinh năm 2019;

Cùng địa chỉ: khóm E, phường A, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp. Chị Nguyễn Ngọc Á là người đại diện theo ủy quyền cho bà Lê Thị H2 đồng thời là người đại diện hợp pháp cho Nguyễn Trọng N và Nguyễn An N1 (chị Á có mặt).

2. Chị Lê Thị Mai L, sinh năm 2003 (có mặt);

Địa chỉ: ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lê Phi H3, sinh năm 1977 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp N, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Ông Hàng Tấn H4, sinh năm 1980 (vắng mặt);

Địa chỉ: khóm A, thị trấn S, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Ông Hàng Tấn N2, sinh năm 1977;

Địa chỉ: số G, Hồ B, phường A, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nghĩa là ông Hàng Tấn H4, sinh năm 1980 (vắng mặt);

Địa chỉ: khóm A, thị trấn S, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Công ty B (vắng mặt);

Địa chỉ: số G V, phường A, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Trần Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Trần Văn T, sinh năm 1989 có giấy phép lái xe hạng B2 theo quy định. Vào khoảng 21 giờ ngày 22/7/2023, T điều khiển xe ô tô biển số 51A - 535.xz lưu thông trên Quốc lộ C hướng T - TP C, khi lưu thông đến địa phận thuộc ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp thì xe ô tô của T va chạm vào phần phía sau của xe mô tô biển số 65F8 - 74xx do anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1988 điều khiển cùng chiều phía trước, xe mô tô của anh C tiếp tục va chạm vào xe mô tô biển số 66B1 - 589xx do chị Lê Thị Mai L, sinh năm 2003 đang điều khiển xe ngược chiều. Hậu quả, anh C bị thương tích nặng được đưa đến Bệnh viện Đ điều trị cấp cứu nhưng đã tử vong, chị L chỉ bị sây xác nhẹ; xe mô tô của C, xe ô tô của T bị hư hỏng nhiều bộ phận; xe của chị L hư hỏng nhẹ, vụ việc sau đó được chuyển đến Công an huyện C thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ:

+ Xe mô tô biển số 66B1 - 589xx cùng giấy đăng ký xe mang tên Lê Phi H3;

+ Xe ô tô biển số 51A-535.xz cùng giấy đăng ký xe mang tên Hàng Tấn N2;

+ Giấy phép lái xe hạng B2 và giấy căn cước công dân mang tên Trần Văn T;

+ Xe mô biển số 65F8 - 74xx.

Qua công tác khám nghiệm hiện trường xác định đoạn đường xảy ra tai nạn là trên cầu Ô, đoạn đường thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, mặt đường trên cầu rộng 8,4m; cầu dài 25,2m. Lấy lề phải hướng thành phố H - thành phố C làm lề chuẩn xác định tâm vùng va chạm vào mép đường chuẩn là 3,8m, cách mố cầu B (hướng TP H - Tp C) là 10,1m. T1 vùng va chạm thuộc địa giới hành chính của xã P, huyện C (cách vị trí ranh vuông gốc là 1.1m).

Ngày 02/08/2023, Phòng K Công an tỉnh Đ đã giám định và kết luận số 816/KL-GĐTT-KTHS về nguyên nhân tử vong của Nguyễn Văn C: bị đa chấn thương trong đó chấn thương nặng vùng đầu làm nứt, vỡ xương sọ phức tạp gây dập xuất huyết toàn bộ hai bên bán cầu đại não là nguyên nhân tử vong.

Căn cứ bản kết luận giám định số 843/KL-KTHH ngày 09/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh Đ đã giám định mẫu máu thu giữ của Trần Văn T từ lúc 02 giờ 40 phút đến 02 giờ 50 phút ngày 23/7/2023 kết quả là: 102,4mg/100ml máu.

Qua điều tra, Trần Văn T thừa nhận bản thân điều khiển xe ô tô có sử dụng chất có cồn, không chú ý quan sát phía trước dẫn đến va chạm vào phía sau xe mô tô do anh Nguyễn Văn C đang điều khiển cùng chiều phía trước dẫn đến anh C tử vong, hành vi của T đã vi phạm điểm a khoản 7 Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Ngày 29/9/2023, Trần Văn T đã thỏa thuận bồi thường trách nhiệm dân sự cho bà Lê Thị H2 và Nguyễn Ngọc Á là đại diện theo pháp luật của bị hại số tiền 400.000.000 đồng gồm chi phí mai táng, tổn thất tinh thần và cấp dưỡng cho 02 người con chưa thành niên. Bị cáo T đồng ý và đã giao tiền xong, được đại diện hợp pháp của bị hại làm đơn xin bãi nại.

Riêng đối với chị Lê Thị Mai L sau khi xảy ra tai nạn chỉ bị trầy xước nhẹ, xe mô tô biển số 66B1 - 589xx hư hỏng nhẹ nên chị L và ông H3 chủ xe mô tô không yêu cầu T bồi thường.

Quá trình điều tra xác định xe ô tô biển số 51A-535.xz do ông Hàng Tấn N2 đứng tên sở hữu, nhưng ông N2 đã giao xe cho ông Hàng Tấn H4 sử dụng, vào ngày 22/7/2023 Trần Văn T có điện thoại cho H4 hỏi mượn xe (không trực tiếp gặp T) nên ông H4 không biết T có sử dụng chất có cồn khi lái xe; hiện ông H4 cũng có đơn không yêu cầu bồi thường; do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã trả lại xe ô tô biển số 51A-535.xz cùng giấy đăng ký xe cho H4, trả lại xe mô tô biển số 65F8 - 74xx cho người quản lý hợp pháp của bị hại; trả lại xe mô tô biển số 66B1 - 589xx cùng giấy đăng ký xe cho ông Lê Phi H3 xong.

Tại Cáo trạng số 64/CT-VKSHCL ngày 29/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Văn T với mức án 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 05 năm.

- Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh tuyên trả lại cho bị cáo Trần Văn T giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Trần Văn T.

* Người bào chữa cho bị cáo T phát biểu quan điểm thống nhất với quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều khoản của tội danh áp dụng đối với bị cáo T. Đồng thời, người bào chữa còn viện dẫn nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo là do bản thân bị cáo thiếu suy nghĩ. Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho bị hại xong và được bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo, bị cáo đang nuôi con còn nhỏ, trong thời gian công tác bị cáo có nhiều thành tích và được tặng nhiều giấy khen. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận, đối đáp gì. Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, mọi hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trần Văn T đã thừa nhận hành vi phạm tội được mô tả tron g bản cáo trạng số 64/CT-VKSHCL ngày 29/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh là đúng với hành vi của bị cáo. Do bị cáo Trần Văn T điều khiển xe ô tô biển số 51A - 535.xz lưu thông trên quốc lộ C hướng thành phố H - thành phố C, đến khoảng 21 giờ ngày 22/7/2023 khi lưu thông đến ấp C, xã P, huyện C thì T không chú ý quan sát phía trước nên xe ô tô va chạm vào phía sau xe mô tô biển số 65F8 - 74xx do anh Nguyễn Văn C đang điều khiển cùng chiều phía trước, xe mô tô tiếp tục va chạm vào xe mô tô biển số 66B1 - 589xx do chị Lê Thị Mai L điều khiển ngược chiều, hậu quả làm anh C tử vong, chị L chỉ bị xây xát nhẹ đã vi phạm vào Điều 12 Luật giao thông đường bộ.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản hiện trường xảy ra vụ tai nạn, kết luận giám định pháp y về tử thi và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử kết luận, hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn T đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi của bị cáo Trần Văn T, khi thực hiện tội phạm, bị cáo là người đã thành niên, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Bản thân bị cáo đã học tập và được cấp giấy phép lái xe theo quy định nhưng bị cáo điều khiển xe không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về giao thông đường bộ, cụ thể là bị cáo đã điều khiển xe trong tình trạng trong máu có nồng độ cồn, không làm chủ tốc độ, thiếu chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn để xảy ra va chạm khi lưu thông. Đây là nguyên nhân chính gây ra vụ tai nạn giao thông như đã nêu trên.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tâm lý người dân khi tham gia giao thông, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Do vậy, đối với bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi sự việc xảy ra thì bị cáo đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả cho phía gia đình của bị hại xong và được người đại diện hợp pháp của bị hại làm đơn bãi nại yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự, tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt và bãi nại cho bị cáo; bị cáo mới phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt. Bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang nuôi con còn nhỏ và trong quá trình công tác được tặng nhiều giấy khen đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét thấy, bị cáo Trần Văn T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng, là lao động chính trong gia đình, có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và không có tình tiết tăng nặng, đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự, không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam mà chỉ áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo. Đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động để trở thành công dân tốt và là người có ích cho gia đình, xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và truy tố, bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại, bị hại đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả xong, người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm bất cứ khoản nào phù hợp theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với giấy phép lái xe hạng B2 của bị cáo T, cần xem xét trả lại cho bị cáo.

(Hiện vật chứng trên Chi cục thi hành án huyện Cao Lãnh đang quản lý).

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[9] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh về tội danh, khung hình phạt và các vấn đề khác là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 03 (ba) năm tù, cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án (ngày 29/01/2024).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình của bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Trần Văn T cố ý vi phạm nghĩa vụ theo Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp đang trong thời gian thử thách án treo mà bị cáo Trần Văn T phạm tội mới, thì Tòa án buộc bị cáo Trần Văn T phải chấp hành bản án trước và tổng hợp hình phạt với bản án mới theo quy định của Điều 56 bộ luật hình sự Trong trường hợp bị cáo Trần Văn T thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại, bị hại đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả xong nên không đặt vấn đề xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, khoản 3, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại cho bị cáo Trần Văn T giấy phép lái xe hạng B2 của bị cáo T, cần xem xét trả lại cho bị cáo.

(Hiện vật chứng trên Chi cục thi hành án huyện Cao Lãnh đang quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/02/2024).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về