Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 123/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 123/2021/HS-ST NGÀY 12/11/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 12 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2021 bị cáo:

Phạm Công T, sinh năm 2001, tại Đồng Nai. Nơi đăng ký thường trú: Ấp PHA, xã PB, huyện TP, tỉnh ĐN; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam: tôn giáo: Thiên; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn K (đã chết) và bà Lưu Thị K (1981); vợ con chưa có; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 80/CQĐT-ĐTTH ngày 12/5/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo tại ngoại (có mặt).

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Hoàng O, sinh năm 1960 (đã chết)

Người đại diện theo pháp luật của bà O:

1. Anh Nguyễn Sơn Đ, sinh năm 1987 (có mặt)

2. Anh Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1985 (vắng mặt)

3. Chị Nguyễn Ánh T, sinh năm 1990 (có mặt)

4. Anh Nguyễn Thế S, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp TL1, xã PT, huyện TP, tỉnh ĐN.

Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp PT, xã PT, huyện TP, tỉnh ĐN

2/ Ông Trần Minh H, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp PY, xã PT, huyện TP, tỉnh ĐN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo T không có giấy phép lái xe theo quy định. Trưa ngày 05/4/2021, T điều khiển xe mô tô biển số 60B3-086.25 trên Quốc lộ 20 hướng Lâm Đồng – Dầu Giây. Khoảng 11 giờ 50 phút, khi đến Km68+100 thuộc Quốc lộ 20 địa bàn ấp PT, xã PT do không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước xe của bị cáo nên đụng vào xe mô tô biển số 60P2-0724 do bà Nguyễn Thị Hoàng O điều khiển chạy cùng chiều phía trước gây tai nạn giao thông.

Sau khi tai nạn xảy ra các xe mô tô trược ngã trên lề đường bên phải Quốc lộ 20; vết cày của xe mô tô biển số 60B3-086.25 dài 3m50, đầu vết cày cách mép đường nhựa là 0m95, tâm bánh trước và sau xe mô tô biển số 60P2-0724 cách mép lòng đường bên phải lần lượt là 0m10 và 0m15 (hướng chọn là hướng Lâm Đồng – Dầu Giây).

Nguyên nhân lỗi vụ tai nạn giao thông: Do T điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe, không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước với xe của mình.

Hậu quả: Bản kết luận giám định pháp y số 122/TT/2021 ngày 12/4/2021 của Trung tâm Pháp y Đồng Nai kết luận: Nguyên nhân chết của bà O do chấn thương sọ não gây vỡ sọ chẩm phải, chảy máu nội sọ.

Cáo trạng số 118/CT-VKSTP-ĐN ngày 22/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Phạm Công T về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng mô tả. Do không giữ khoảng cách an toàn, không chú ý quan sát là nguyên nhân gây ra vụ tai nạn.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Sau vụ tai nạn xảy ra gia đình bị cáo đã bồi thường thỏa đáng, chủ động thăm hỏi gia đình bị hại. Gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, tại phiên tòa đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 38, điểm a khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù, cho hưởng án treo. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử quyết định về án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận cho hành vi của mình, việc xét xử là không oan sai và nói lời sau cùng như sau: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về hoà nhập với cộng đồng và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Thủ tục tố tụng: Hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng về trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Hành vi, tính chất, mức độ phạm tội:

Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp tài liệu chứng cứ mới và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo tại tòa là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với sơ đồ hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Bị cáo không có giấy phép lái xe theo quy định. Khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 05/4/2021, tại Km số 68 + 100m thuộc ấp PT, xã PT, huyện TP,tỉnh ĐN. Bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 60B3-086.25 do thiếu chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn đã đụng vào xe mô tô do bà O đang điều khiển chạy phía trước làm bà O chết.

Hành vi của T đã vi phạm vào Điều 8, 12 Luật Giao thông đường bộ 2008, là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Vậy nên Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Tội phạm do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của bà O gây hoang mang trong cộng đồng dân cư nơi xảy ra vụ án, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Vì vậy, nhằm để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội, cần thiết phải xét xử và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi bị cáo đã gây ra, để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn và là lao động chính trong gia đình; hiện đang tham gia công tác xã hội ở địa phương; đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4.3] Đặc điểm nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.

[5] Hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý, có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có ít nhất 01 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51, không có tình tiết tăng nặng. Căn cứ vào Điều 65 Bộ luật hình sự và Điều 2, Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng chế định án treo, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân nơi cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Các biện pháp tư pháp:

[6.1] Bồi thường thiệt hại: Bị cáo và đại diện cho bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong, đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[6.2] Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trao trả các các phương tiện liên quan cho đại diện hợp pháp của chủ sở hữu.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân, loại hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 2 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 65 Bộ luật Hình sự;

- Điều 2, Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Công T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt:

Phạm Công T 03 (ba) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Phú Bình, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; anh Đ, chị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Anh S, anh P được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo đúng quy định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 123/2021/HS-ST

Số hiệu:123/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về