Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 11/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 31 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh B xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 213/2023/TLST- HS ngày 21 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Lương Xuân Đ, sinh năm 1994 tại B; nơi cư trú: Ấp H, xã P, huyện L, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Xuân S, sinh năm 1960 và mẹ bà Lê Thị T, sinh năm 1962; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt - Bị hại: Ông Lê Công D, đã chết.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Lê Thị C, sinh năm 1962; địa chỉ: Ấp H, xã P, huyện L, tỉnh B. (vợ của bị hại, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Công ty TNHH X; địa chỉ: Khu dân cư N, phường L, thành phố B, tỉnh B. Người đại diện theo pháp luật: Ông Đinh Tấn L1, sinh năm 1991; địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện X, tỉnh B. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

+ Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1970; địa chỉ: Khu phố H, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh B. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người làm chứng: Ông Phạm Văn C1, sinh năm 1980; địa chỉ: Khu phố H, thị trấn P, huyện Đ, tỉnh B. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Xuân Đ (sinh năm 1994; nơi cư trú: Ấp H, xã P, huyện L) là tài xế xe ô tô tải tự đổ BKS 72C – xxxxx (có khối lượng bản thân 14.620 kg) của Công ty TNHH X, trụ sở tại khu dân cư N thuộc phường L, thành phố B, tỉnh B, do anh Đinh Tấn L1 (sinh năm 1991; nơi cư trú: Ấp T, xã P, huyện X) làm chủ. Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 03-8-2023, Đ được công ty yêu cầu chở vật liệu san lấp vào khu vực “Hồ Bút T2” nên Đ điều khiển xe ô tô tải BKS 72C – xxxxx hướng từ đường N đi đường H - B về hướng Trung Đoàn M thuộc xã P, huyện L. Tại đầu đường giao nhau H - B và đường N, Đ thấy biển báo cấm ô tô tải có tổng trọng lượng vượt quá 08 tấn nhưng Đ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe ô tô đi. Khi đến gần khu vực Đền T3 liệt sỹ thuộc xã P, huyện L, Đ quan sát thấy xe mô tô BKS 72C1.xxxx nhãn hiệu Honda, loại xe Airblade do ông Lê Công D (sinh năm 1976; nơi cư trú: B, T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận) điều khiển cùng chiều phía sau xe Đông. Lúc này, ông D điều khiển xe vượt lên phía bên trái của xe ô tô tải BKS 72C – xxxxx thì va chạm vào cánh cửa bên trái của xe ô tô tải bảo ôn BKS 72C - xxxx do ông Phạm Văn C1 (sinh năm 1980; nơi cư trú: Khu phố H, thị trấn P, huyện Đ) điều khiển theo hướng ngược lại (từ thị trấn P đến xã P, huyện L). Hậu quả, ông D bị té ngã xuống đường và bị xe ô tô tải BKS 72C – xxxxx do Đ điều khiển cán qua người dẫn đến tử vong. Sau khi tai nạn xảy ra, Đ đã đến Công an trình diện và khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.

* Hiện trường vụ tai nạn:

- Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn là đoạn đường Hải Lâm Bàu Trú thuộc ấp Hải Sơn, xã Phước Hưng, huyện L, tỉnh B.

- Đường Hải Lâm Bàu Trú là đường 2 chiều, chính giữa tâm đường có kẻ vạch sơn màu vàng nét liền chia mặt đường thành hai phần xe chạy riêng biệt, bề rộng mặt đường là 07m00. Tại nơi xảy ra tai nạn, đường cong, trải bê tông nhựa, mặt đường bằng phẳng. Đầu đường H theo hướng đường N đi Trung đoàn M có cắm biển báo cấm ô tô tải có tổng trọng lượng vượt quá 08 tấn.

- Xác định điểm mốc và mép đường làm lề chuẩn: Chọn lề phải đường H đi Trung đoàn M làm lề chuẩn để đo số liệu; chọn cột điện số 477AN/58/32 nằm bên phải Hải Lâm B đi Trung đoàn M làm điểm mốc.

* Sau khi xảy ra tai nạn:

- Xe ô tô biển số: 72C-xxxx đứng yên, đầu xe hướng về đường N, đuôi xe hướng về Trung đoàn Minh Đ1, từ tâm đầu trục bánh trước đó vào lề chuẩn là 05m30;

từ tâm đầu trục bánh sau bên trái đo vào lề chuẩn là 05m30.

- Xe ô tô biển số 72C-xxxxx: Đứng yên, đầu xe hướng về Trung đoàn Minh Đ1, đuôi xe hướng về đường N, từ tâm đầu trục bánh trước phía trước bên phải đo vào lề chuẩn là 0m70, từ tâm đầu trục bánh trước phía sau bên phải đo vào lề chuẩn là 0m60, từ tâm đầu trục bánh sau phía trước bên phải đo vào lề chuẩn là 0m70, từ tâm đầu trục bánh sau phía sau bên phải đo vào lề chuẩn là 0m70.

- Xe mô tô biển số 72C1-xxxx: Ngã sang phải, đầu xe hướng về Trung đoàn Minh Đ1, đuôi xe hướng về đường N, từ hình chiếu tâm trục bánh trước đo vào lề chuẩn là 04m20, từ hình chiếu tâm trục bánh sau đo vào lề chuẩn là 04m00.

- Vết cày đứt nét có chiều hướng đến xe mô tô 72C1-xxxx dài 06m00, từ điểm đầu vết cày đo vào lề chuẩn là 05m00, đo vào tâm trục bánh sau bên trái xe ô tô biển số 72C-xxxx là 34m00.

- Vết trượt bánh xe sau khi xảy ra tai nạn có chiều hướng đến xe ô tô 72C-xxxxx dài 10m00, rộng 0m60, từ điểm đầu vết trượt đo vào lề chuẩn là 02m90, đo vào hình chiếu tâm đầu trục bánh sau xe mô tô là 0m80.

- Từ tâm bánh trước xe ô tô biển số 72C-xxxxx đo đến điểm mốc là 05m90.

* Kết quả giám định dấu vết:

Tại bản Kết luận giám định số 211/KL-KTHS-DVCH ngày 24/8/2023 của Phòng K, Công an tỉnh B kết luận:

1. Dấu vết trượt xước mất kim loại và bám dính chất màu trắng (dạng sơn) tại phía trước, đầu tay phanh bên trái, ở xe mô tô biển số 72C1-xxxx, có chiều từ trước về sau (ảnh 5, 7 trong bản ảnh giám định), phù hợp với dấu vết trượt xước mất sơn màu trắng và biến dạng tại mặt ngoài cánh cửa và gờ mép sau, bên trái, trên xe ô tô biển số 72C-xxxx, có chiều từ trước về sau (ảnh 6, 8 trong bản ảnh giám định).

- Dấu vết vỡ, hằn, rách và bám dính chất màu trắng (dạng sơn) tại phía trước, tay cầm lái bên trái ở xe mô tô biển số 72C1-xxxx, có chiều từ trước về sau (ảnh 5, 9 trong bản ảnh giám định), phù hợp với dấu vết trượt xước mất sơn màu trắng và biến dạng tại mặt ngoài cánh cửa và gờ mét sau, bên trái, trên xe ô tô biển số 72C-xxxx, có chiều từ trước về sau (ảnh 6, 10 trong bản ảnh giám định).

2. Xe mô tô biển số 72C1-xxxx và xe ô tô 72C-xxxx lưu thông ngược chiều.

* Kết quả giám định pháp y:

Tại bản Kết luận giám định tử thi số 312/KL-KTHS-PY ngày 03-9-2023 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận:

1. Các kết luận chính:

- Kết quả khám nghiệm:

+ Dập-rách rộng da cơ vùng bụng quanh hố chậu phải-vùng lưng bên phải. Tụ- chảy máu trong cơ vùng bụng-vùng lưng bên phải. Gãy cung bên xương sườn 6-7-8 bên phải. Dập rải rác phổi phải. Gãy-vỡ cột sống thắt lưng đoạn TJ3-TL4-TL5. Gãy- vỡ khung chậu phải. Dập-rách ruột. Dập-rách mạc treo. Dập-vỡ gan. Tràn máu khoang bụng.

+ Dập-rách toàn bộ da cơ đùi phải. Gãy-dập toàn bộ xương đùi phải. Đứt mạch máu đùi phải. Gãy xương đùi trái. Gãy xương cẳng chân trái.

b. Kết luận:

- Kết luận nguyên nhân chết: Lê Công D chết do đa chấn thương.

- Kết luận khác:

+ Trong máu tử thi Lê Công D tìm thấy E-Nồng độ 1.6g/1 (Một phết sáu gam/lít); Không tìm thấy ma túy.

+ Vật tác động gây chấn thương là vật tày, diện tiếp xúc rộng, tác động trực tiếp vào vùng bụng-đùi cơ thể nạn nhân theo cơ chế ép-nén.

Theo kết quả kiểm tra nồng độ cồn trong khí thở của Đội CSGT Công an huyện L, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu vào lúc 16 giờ 44 phút ngày 03-8-2023 xác định: Nồng độ cồn trong khí thở của ông Phạm Văn C1 là 0.000mg/1.

Theo kết quả kiểm tra nồng độ cồn trong khí thở của Đội CSGT Công an huyện L, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu vào lúc 17 giờ 55 phút ngày 03-8-2023 xác định: Nồng độ cồn trong khí thở của bị can Lương Xuân Đ là 0.000mg/1.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

- 01 giấy chứng nhận đăng kiểm và 01 xe ô tô nhãn hiệu Thaco BKS 72C- xxxx, loại xe tải bảo ôn, màu trắng, do bà Nguyễn Thị T1 (sinh năm 1970; Nơi cư trú: Khu phố H, thị trấn P, huyện Đ) đứng tên làm chủ sở hữu.

- 01 giấy chứng nhận đăng kiểm và 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu CNHTC, Loại xe: Tải tự đổ, màu nâu, BKS 72C-xxxxx do anh Đinh Tấn L1 (sinh năm 1991; Nơi cư trú: Á, xã P, huyện X là chủ sở hữu.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Airblade, màu đỏ, BKS 72C1- xxxx do bà Lê Thị C (sinh năm 1962; nơi cư trú: Ấp H, xã P, huyện L (vợ của D) đứng tên làm chủ sở hữu.

Ngày 16-11-2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện L đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả tất cả chiếc xe trên kèm theo giấy tờ xe cho chủ sở hữu là bà T1, anh L1, bà C.

- Đối với 01 (một) giấy phép lái xe hạng C, số 770121003975 mang tên Lương Xuân Đ; 01 DVD ghi lại hình ảnh vụ tai nạn giao thông nói trên. Hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện L lưu theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 giấy phép lái xe số 770062007212 hạng E của ông Phạm Văn C1, ngày 16-11-2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện L đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông C1. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra bị can Lương Xuân Đ cùng với Công ty Đ2 bồi thường cho gia đình bị hại ông Lê Công D số tiền 100.000.000 đồng, gia đình ông D đồng ý nhận tiền bồi thường và có đơn bãi nại đối với bị can Đ. Tại bản Cáo trạng số 06/CT-VKSLĐ ngày 19-12-2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu truy tố bị cáo Lương Xuân Đ về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 14 tháng đến 18 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Đ và công ty Đ2 đã bồi thường cho gia đình bị hại 100.000.000đ và gia đình bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét, giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo Giấy phép lái xe hạng C mang tên Lương Xuân Đ. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và không có ý kiến gì về luận tội của kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện L, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ nghiêm chỉnh theo thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với người đại diện hợp pháp của bị hại bà Lê Thị C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra, có đơn xin xét xử vắng mặt nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có căn cứ xác định nội dung vụ án như sau:

Vào lúc 15 giờ 00 phút ngày 03-8-2023, bị cáo Lương Xuân Đ đã có hành vi điều khiển xe tải tự đỗ BKS 72C – xxxxx (có khối lượng bản thân 14.620kg) đi vào tuyến đường H thuộc ấp H, xã P, huyện L, tỉnh B bên ngoài có biển báo cấm ô tô tải có tổng trọng lượng vượt quá 08 tấn. Khi xe của Đ đi đến khu vực Đền T3 liệt sỹ thuộc xã P, huyện L thì xe mô tô BKS 72C1.xxxx nhãn hiệu Honda, loại xe Airblade do ông Lê Công D điều khiển đi cùng chiều vượt lên phía bên trái và va chạm vào cánh cửa bên trái của xe ô tô tải bảo ôn BKS 72C - xxxx do ông Phạm Văn C1 điều khiển theo hướng ngược lại. Hậu quả, ông D bị té ngã xuống đường và bị xe ô tô tải BKS 72C – xxxxx do Đ điều khiển cán qua người dẫn đến tử vong do đa chấn thương.

Nguyên nhân vụ tai nạn do Lương Xuân Đ điều khiển phương tiện tham gia giao thông không chấp hành biển báo hiệu đường bộ vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật giao thông đường bộ; ông Lê Công D điều khiển xe mô tô có sử dụng chất kích thích vượt quá mức quy định là vi phạm khoản 1 Điều 35 Luật phòng chống tác hại của rượu, bia năm 2019, vượt xe không đảm bảo an toàn là vi phạm khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

Hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng, vi phạm quy tắc an toàn khi tham gia giao thông đường bộ, gây thiệt hại về tính mạng của người khác. Hiện nay, ý thức chấp hành pháp luật giao thông đường bộ của một bộ phận người tham gia giao thông chưa cao, là nguyên nhân gây ra những vụ tai nạn giao thông với hậu quả rất nghiêm trọng, gây thiệt hại về người và tài sản, bức xúc trong nhân dân. Nên cần có hình phạt nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo về ý thức tuân theo pháp luật nói chung và chấp hành luật giao thông đường bộ nói riêng; đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của những người điều khiển phương tiện giao thông.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại; đại diện bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Nên cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Qua xem xét đánh giá, Hội đồng xét xử nhận thấy bản thân bị cáo có khả năng tự cải tạo mình để trở thành người công dân tốt. Nên không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo với một thời gian thử thách nhất định theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự vẫn đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện được sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo được sửa chữa những sai lầm đã phạm phải.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Đ và công ty Đ2 đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Đại diện hợp pháp của bị hại bà Lê Thị C không yêu cầu bồi thường thêm nên HĐXX không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo Giấy phép lái xe hạng C mang tên Lương Xuân Đ đang được lưu theo hồ sơ vụ án.

các vấn đề khác: Đối với hành vi của Phạm Văn C1 điều khiển xe ô tô tải bảo ôn BKS 72C-xxxx điều khiển từ hướng Đất Đỏ đến huyện L thì va chạm với xe mô tô BKS 72C-xxxx do ông Lê Công D điều khiển theo hướng ngược lại. Tại thời điểm xảy ra va chạm xe ô tô do C1 điều khiển chạy đúng phần đường quy định nên C1 không có lỗi trong vụ tai nêu trên.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Xuân Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Lương Xuân Đ 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện L nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo được hưởng án treo vắng mặt nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 93 của Luật Thi hành án hình sự; Nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt của Bản án theo quy định của Bộ luật Hình sự.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo 01 Giấy phép lái xe hạng C mang tên Lương Xuân Đ đang được lưu theo hồ sơ vụ án.

4. Về án phí: Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31-01-2024) hoặc kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật (đối với đương sự vắng mặt), bị cáo, đại diện bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh B yêu cầu xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 11/2024/HS-ST

Số hiệu:11/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về