Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 11/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 05/05/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 05 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2022/TLST - HS ngày 19 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pa đối với bị cáo:

Rah Lan M, sinh năm 1991 tại huyện K, tỉnh Gia Lai; Nơi cư trú: Buôn T, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ; Dân tộc: Jrai; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Kpă N (đã chết) và bà Rah lan H’Y; Nhân thân: xấu; Tiền sự: Không; Tiền án: bị cáo có 02 tiền án:

- Tại bản án số 05/2018/HS-ST ngày 26/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 02/5/2018 chấp hành xong hình phạt về lại địa phương, bị cáo đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Tại bản án số 40/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng “tái phạm”, đến ngày 07/5/2020, bị cáo chấp hành xong hình phạt về lại địa phương, bị cáo chưa nộp án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng đã bỏ trốn, bị truy nã và bị bắt theo quyết định truy nã ngày 20/11/2022, bị cáo bị giam ngày 22/11/2022 và giam liên tục cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

+ Ông Rô J, sinh năm 1979 (Đã chết).

Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Cháu Ksor H’R, sinh ngày 20/9/2014. Vắng mặt. Nơi cư trú: Buôn N, xã U, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Bà R’Ô H’B, sinh năm 1944. Có mặt.

Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

- Người đại diện theo pháp luật của bị hại Rô J:

+ Bà R’Ô H’B, sinh năm 1944. Có mặt.

Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai + Bà Ksor H’P, sinh năm 1979. Có mặt.

Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Anh Ksor P, sinh năm 1997. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Anh Ksor M, sinh năm 2001 Vắng mặt.

Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Chị Ksor H’L, sinh ngày 10/8/2004. Vắng mặt. Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Cháu Ksor Ng, sinh ngày 01/01/2007. Vắng mặt. Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Cháu Ksor K, sinh ngày 23/10/2011. Vắng mặt. Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Cháu Ksor Đ, sinh ngày 08/10/2014. Vắng mặt. Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

- Người đại diện theo pháp luật của bị hại Ksor H’R: Chị Ksor H’B, sinh năm 1997. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Buôn N, xã U, huyện K, tỉnh Gia Lai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Chị R’Ô H’NH, sinh năm 1988. Có mặt.

Nơi cư trú: Buôn N, xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai.

+ Chị Rah Lan H’N, sinh năm 1982. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Buôn T, xã P, huyện K, tỉnh Gia Lai.

- Người phiên dịch tiếng Jrai: Ông Nay Dăm Truy, sinh năm 1986. Có mặt.

Nơi cư trú: Tổ dân phố A, thị trấn P, huyện K, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 10/01/2021, sau khi uống rượu tại nhà Ama S ở Buôn T, xã P, huyện K thì Rah Lan M điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 78V2-X, dung tích xilanh 109, không có giấy phép lái xe hạng A1, đi trên đường Đông Trường S theo hướng từ Buôn T, xã P đến Buôn P, xã I, huyện K. Khi đến Km 448+100 thuộc buôn C, xã U, Rah Lan M điều khiển xe lấn qua làn đường bên trái theo hướng lưu thông đâm vào phần đầu bên trái của xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 81N1-X do ông Rô J, sinh năm 1979, trú tại Buôn N, xã C điều khiển đi ngược chiều, phía sau chở theo bà R’Ô H’B (mẹ của Rô J) và cháu Ksor H’R (cháu gái của Rô J). Hậu quả ông Rô J chết trên đường đi cấp cứu, còn bị cáo Rah Lan M, bà R’Ô H’B và cháu Ksor H’R bị thương, 02 phương tiện hư hỏng. Kết quả kiểm tra nồng độ cồn của Ran Lan M là 0,053mg/L khí thở.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 12/21/TT ngày 11/01/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai kết luận: Ông Rô J chết vì chấn thương vỡ xương gò má trái, gãy cung sườn trái.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 05/2021/KLĐG ngày 26/02/2021 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện K xác định giá trị thiệt hại xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 81N1-X là 5.000.000 đồng; giá trị thiệt hại của xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 78V2-X là 6.300.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại bà R’Ô H’B, cháu Ksor H’R, người đại diện hợp pháp của bị hại Rô J và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định và kết luận định giá nêu trên.

Đối với bà R’Ô H’B, cháu Ksor H’R và người đại diện theo pháp luật của cháu Ksor H’R đã có đơn từ chối giám định tỉ lệ thương tích cơ thể nên không có căn cứ để xử lý đối với Rah Lan M về thương tích đã gây ra cho bà R’Ô H’B, cháu Ksor H’R.

Đối với chị Rah Lan H’N (chủ sở hữu xe mô tô biển kiểm soát 78V-X) thì giữa chị H’N và bị cáo M có mối quan hệ quen biết nhau. Vào ngày 10/01/2021, khi bị cáo M mượn chiếc xe trên thì chị H’N đang đi làm rẫy, M có nói với con của chị H’N mượn xe. Chị H’N không giao xe cho M nên chị H’N không phạm tội “Giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” quy định tại Điều 264 BLHS.

Đối với hành vi điều khiển phương tiện giao thông trong máu có nồng độ cồn 0,053mg/L khí thở của bị cáo M là chưa quá mức quy định để xử lý trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Krông Pa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKS, ngày 09 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Rah Lan M ra trước Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai để xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu.

Bị hại bà R’Ô H’B, người đại diện theo pháp luật của bị hại ông Jơn là bà bà R’Ô H’B, bà Ksor H’P có mặt tại phiên tòa đều có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Rah Lan M phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, đồng thời đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS:

Xử phạt bị cáo Rah Lan M từ 3 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.

Trả lại: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 78V2-X, số khung RLHJC4328AY258852, số máy JC43E5736438, 01 giấy đăng ký xe môtô số 00284 mang tên Nguyễn Thị Hồng T cho chị Rah Lan H’N và 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 81N1-X, số khung C640AY315652, số máy 5C64315657, 01 giấy đăng ký xe môtô số 005899 mang tên Phạm Thị M cho chị R’Ô H’N.

Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và những người đại diện theo pháp luật của bị hại Rô J về bồi thường thiệt hại, buộc bị cáo M phải tiếp tục bồi thường cho những người đại diện theo pháp luật của bị hại Rô J số tiền 80.000.000 đồng. Buộc bị cáo M phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng;

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào khoảng 17 giờ ngày 10/01/2021, bị cáo Rah Lan M điều khiển xe môtô biển kiểm soát 78V2-X, không có giấy phép lái xe hạng A1, lấn qua làn đường bên trái theo hướng lưu thông, đâm vào phần đầu bên trái của xe môtô biển kiểm soát 81N1-X do ông Rô Jơn điều khiển đi ngược chiều, phía sau chở theo bà R’Ô H’B và cháu Ksor H’R. Gây ra hậu quả làm ông Rô J chết vì chấn thương vỡ xương gò má trái, gãy cung sườn trái. Bị cáo M, bị hại R’Ô H’B và cháu Ksor H’R bị thương, 02 xe mô tô bị hư hỏng.

Như vậy, bị cáo Rah Lan M điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe, đi sai làn đường quy định là vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ, nên trực tiếp gây thiệt hại về tính mạng cho bị hại ông Rô J, gây nên tổn thất lớn về tinh thần cho gia đình bị hại ông Rô J, gây thương tích nhẹ cho bị hại bà R’Ô H’B và cháu Ksor H’R. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm và đã gây hậu quả rất nghiêm trọng với lỗi vô ý, xâm phạm đến tính mạng con người và ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định pháp y, lời khai của những bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng của vụ án đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Rah Lan M phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo về hành vi theo tội danh trên là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo M điều khiển xe mô tô khi không có giấy phép lái xe là tình tiết định khung hình phạt nên bị xét xử theo điểm a khoản 2 Điều 260 của BLHS là phù hợp.

[4] Tính chất hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Bị cáo M là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi nguy hiểm và gây hậu quả nghiêm trọng, đã xâm phạm đến an toàn, trật tự công cộng do Nhà nước thống nhất quản lý, làm thiệt hại đến tính mạng của con người, gây đau thương cho gia đình bị hại. Nay cần xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo là điều cần thiết.

Bị cáo M là người trực tiếp thực hiện hành vi, vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây ra tai nạn, với lỗi vô ý làm ông Rô J tử vong nên bị cáo phải chịu toàn bộ trách nhiệm hình sự trong vụ án này. Bị cáo không có tiền sự nhưng có 02 tiền án: Tại bản án số 05/2018/HS-ST ngày 26/01/2018, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 02/5/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt về lại địa phương. Tại bản án số 40/2018/HS-ST, ngày 22/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Gia Lai xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 07/5/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt nhưng chưa nộp án phí hình sự và dân sự sơ thẩm cho nên đến lần phạm tội do vô ý này bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS áp dụng cho bị cáo.

Nhưng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã bồi thường thiệt hại gây ra cho gia đình của bị hại Rô J là 180.000.000 đồng, bồi thường cho bị hại bà R’Ô H’B và bị hại cháu Ksor H’R mỗi người 10.000.000 đồng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS được áp dụng cho bị cáo.

Bên cạnh đó, tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại J, bị hại bà R’Ô H’B có quan điểm đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là người dân tộc thiểu số không biết chữ, nhận thức về pháp luật hạn chế, cư trú ở vùng sâu, vùng xa, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS được áp dụng cho bị cáo.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, quan điểm của Người bào chữa cho bị cáo và Kiểm sát viên thì HĐXX thấy bị cáo M là người có tiền án, phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm”, trong quá trình điều tra được tại ngoại thì bị cáo bỏ trốn nên gây khó khăn cho việc xét xử bị cáo. Đồng thời hiện nay tình hình tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện K có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, nên cần xử phạt bị cáo M hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để nhằm mục đích trừng trị nhưng cũng giúp cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống và nhằm giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung loại tội phạm này gia tăng.

Lời luận tội của Kiểm sát viên và người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa về điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

[5] Về vật chứng và vấn đề liên quan khác:

01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 78V2-X, số khung RLHJC4328AY258852, số máy JC43E5736438 và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 002684 mang tên Nguyễn Thị Hồng T thuộc quyền sở hữu của chị Rah Lan H’N nên cần trả lại cho chị H’N là phù hợp.

01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 81N1-X, số khung C640AY315652, số máy 5C64315657 và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 005899 mang tên Phạm Thị M thuộc quyền sở hữu của chị R’Ô H’Nh nên cần trả lại cho chị H’Nh là phù hợp.

Đặc điểm chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

Đối với bà R’Ô H’B, cháu Ksor H’R bị thương tích nhẹ đã có đơn từ chối giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện K không xem xét, giải quyết trách nhiệm hình sự của bị cáo đối với thương tích của bà R’Ô H’B, cháu Ksor H’R là có căn cứ pháp lý.

Đối với chị Rah Lan H’N là chủ sở hữu xe mô tô biển kiểm soát 78V-X thì khi bị cáo M mượn xe thì chị H’N đang đi làm rẫy, bị cáo M có nói với con của chị H’N cho mượn xe. Chị H’N không giao xe cho bị cáo M nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện K không xem xét, giải quyết trách nhiệm hình sự đối với chị H’N về tội “Giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” quy định tại Điều 264 BLHS là có căn cứ pháp lý.

Đối với hành vi điều khiển phương tiện giao thông trong máu có nồng độ cồn 0,053mg/L khí thở của bị cáo M là chưa quá mức quy định để xử lý trách nhiệm hình sự nên Công an huyện K ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này là phù hợp quy định pháp luật.

Nay HĐXX cũng không xem xét đến các vấn đề đã nhận định như trên.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo M đã bồi thường cho người đại diện theo pháp luật của bị hại ông Rô J trước đây được 180.000.000 đồng. Tại phiên tòa, những người đại diện theo pháp luật của bị hại ông J là bà Rơ Ô H’B và Ksor H’P yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm số tiền 80.000.000 đồng thì được bị cáo đồng ý. Do đó HĐXX cần chấp thỏa thuận này giữa bị cáo và những người đại diện theo pháp luật của bị hại ông J, buộc bị cáo phải thực hiện.

Qúa trình điều tra thì chị Rah Lan H’N có lời khai yêu cầu bị cáo M bồi thường thiệt hại xe mô tô biển kiểm soát 78V2-X là 6.300.000 đồng theo như kết quả định giá tài sản, nhưng tại phiên tòa thì chị Rah Lan H’N không có mặt và cũng không có yêu cầu gì. Do đó HĐXX không xem xét, sau này chị H’N có yêu cầu thì sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

[7] Về án phí: bị cáo M là người dân tộc thiểu số cư trú tại xã C, huyện K, tỉnh Gia Lai là xã đặc biệt khó khăn của huyện Krông Pa theo quy định của Chính phủ, đồng thời các bị cáo có đơn xin miễn tiền án phí hình sự và dân sự sơ thẩm nên HĐXX quyết định miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Rah Lan M phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

1. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Rah Lan M 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt truy nã là ngày 20/11/2022.

2. Áp dụng Điều 46, Điều 48 của BLHS; Điều 584, 585, 586, 591 của Bộ luật Dân sự, Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Rah Lan M và những người đại diện theo pháp luật của bị hại ông J. Buộc bị cáo Rah Lan M phải tiếp tục bồi thường thiệt hại cho những người đại diện theo pháp luật của bị hại ông Rô J là bà R’Ô H’B, bà Ksor H’P, anh Ksor P, anh Ksor M, chị Ksor H’L, cháu Ksor Ng, cháu Ksor K, cháu Ksor Đ số tiền 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3. Căn cứ Điều 47 của BLHS, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho chị Rah Lan H’N 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 78V2-X, số khung RLHJC4328AY258852, số máy JC43E5736438 và 01 giấy đăng ký xe môtô số 002684 mang tên Nguyễn Thị Hồng T.

- Trả lại cho chị R’Ô H’NH 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 81N1-X, số khung C640AY315652, số máy 5C64315657 và 01 giấy đăng ký xe môtô số 005899 mang tên Phạm Thị M.

Đặc điểm chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

4. Căn cứ vào Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Miễn toàn bộ án phí hình sự và dân sự sơ thẩm cho bị cáo Rah Lan M.

Bị cáo, bị hại bà R’Ô H’B, người đại diện theo pháp luật của ông Rô J là bà Ksor H’P, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị R’Ô H’Nh có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/5/2023), còn bị hại Ksor H’R, người đại diện theo pháp luật của bị hại Ksor H’R là chị Ksor H’B, người đại diện theo pháp luật của ông Rô J là anh Ksor P, anh Ksor M, chị Ksor H’L, cháu Ksor Ng, cháu Ksor K, cháu Ksor Đ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Rah Lan H’N có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 11/2023/HS-ST

Số hiệu:11/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về