TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 105/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 29 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Đặng Văn B, sinh ngày 03/12/1969 tại tỉnh Vĩnh Phúc; trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Y (đã chết) và bà Trương Thị B (đã chết); có vợ là Ngô Thị C và 02 con (con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 1997); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại (có mặt);
- Bị hại: Anh Phạm Minh H, sinh năm 1992 (đã chết);
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
+ Ông Phạm Hồng M, sinh năm 1962; trú tại: Số nhà x L, phường L, thị xã S, thành phố Hà Nội (vắng mặt);
+ Bà Trần Thị Tuyết M, sinh năm 1967; trú tại: Phòng y, nhà k, khu tập thể z, phường Q, quận H, thành phố Hà Nội (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 04/5/2023, anh Phạm Minh H đi xe taxi đến cổng quán cà phê “Không G” ở thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau đó, anh H xuống xe đi bộ loanh quanh ngoài đường khu vực trước cổng quán, sau đó tiếp tục vẫy xe ô tô xem có xe nào đi qua nhưng không được nên anh H nằm ra lề đường. Lúc này khoảng 02 giờ 00 phút ngày 05/5/2023 anh Nguyễn Huy T là phó trưởng Công an xã T, huyện L đi tuần tra cùng một số người dân xung quanh đến hỏi anh H và anh H ngồi dậy nói là chờ để bắt xe. Khoảng 15 phút sau anh T cùng mọi người đi về, anh H ngồi ở lề đường, sau đó ra nằm ngửa dọc sát với vạch sơn kẻ giữa đường, chân hướng xã B, đầu hướng xã T, tay phải vắt ngang trên trán, cách cổng quán cà phê khoảng 40m. Đến khoảng 02 giờ 25 phút cùng ngày, Đặng Văn B có giấy phép lái xe hạng B2 một mình điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 88A-X đi từ nhà đến tỉnh lộ 306 thuộc thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi này, B điều khiển xe đi ở khoảng giữa đường, hướng từ xã B đi xã T với tốc độ khoảng 60 km/giờ. Do đường vắng, không thấy có phương tiện qua lại nên B chủ quan không chú ý quan sát phía trước, khi đầu xe ô tô B điều khiển cách chân anh H khoảng 03m thì B mới ngoảnh về phía trước nhìn thấy anh H đang nằm ở giữa đường. Do khoảng cách gần, không làm chủ tốc độ, không kịp xử lý nên đầu xe ô tô của B đã đâm vào anh H, kéo anh H đi khoảng 20m thì anh H văng ra khỏi gầm xe, xe của B tiếp tục đi khoảng 20m nữa thì dừng lại. B xuống xe và đi về phía sau kiểm tra thì thấy cách đuôi xe ô tô khoảng 20m hướng đi xã Bàn Giản anh H nằm nghiêng ở giữa đường, trên người chảy nhiều máu thì B biết là xe ô tô B điều khiển vừa đâm vào anh H gây tai nạn. Cùng lúc này, từ trong quán cà phê “Không G” có anh Nguyễn Xuân T là bảo vệ quán cà phê nghe thấy tiếng va chạm mạnh đi ra đến cùng B kiểm tra thì phát hiện anh H đã chết. B nói với anh T gọi báo Công an giúp để giải quyết, sau đó có một số người dân xung quanh ra xem và hỏi thì B nói tên, địa chỉ và việc vừa điều khiển xe ô tô đâm vào anh H. B ở hiện trường khoảng 40 phút xem sự việc cùng mọi người rồi gọi điện thoại cho chị Ngô Thị C (là vợ B) nói việc mình vừa gây ra tai nạn nhưng không mang theo giấy đăng ký xe, chị C bảo B đi về tìm giấy tờ rồi đến cơ quan Công an làm việc. Sau đó, B cho người dân chụp lại biển kiểm soát của xe rồi nói là đi trình báo cơ quan Công an. B điều khiển xe ô tô đi về nhà, đến khoảng 05 giờ cùng ngày đến trụ sở Công an huyện Lập Thạch đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi gây tai nạn giao thông của mình.
Khám nghiệm hiện trường xác định: Nơi xảy ra tai nạn giao thông tại đường TL306 thuộc địa phận thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Đoạn đường này thẳng, bằng phẳng, mặt đường khô ráo trải apphan rộng 6m60.
Theo hướng từ xã Bàn Giản đi UBND xã T bên phải là lề đường mọc cỏ và kênh nước, bên trái là lề đường mọc cỏ và cánh đồng lúa thôn G. Quá trình khám nghiệm lấy mép phải TL306 làm mép đường chuẩn và lấy cột điện ký hiệu 1.21-TD2 làm cột mốc chuẩn, cột điện này ở lề bên phải đường và cách mép phải đường 3m90.
Tại hiện trường để lại: (1): Vết trượt mặt đường bám dính chất màu nâu đỏ trên diện 25m40 x 10cm, có hướng từ xã B đi UBND xã T. Điểm giữa đầu vết (1) cách mép đường chuẩn là 2m66, cách cột mốc chuẩn 10m30. Điểm giữa cuối vết (1) cách mép đường chuẩn là 2m90. Tại điểm đầu vết (1) không phát hiện bám dính chất màu nâu đỏ.
(2): Vị trí tử thi là nam giới trong tình trạng nằm nghiêng bên phải trên mặt đường, đầu hướng về phía UBND xã T và chếch về phía cánh đồng lúa, hai chân co hướng về phía đi xã B và chếch về phía kênh nước, lưng khom hướng về phía UBND xã T, mặt hướng về phía xã B. Vị trí đầu tử thi cách mép đường chuẩn là 2m90 và trùng với điểm cuối của vết (1). Vị trí gót giày đeo chân phải của tử thi cách mép đường chuẩn là 2m28.
(3): Bãi chất màu đỏ trên diện 1m60 x 80cm phát hiện trên mặt đường TL306. Điểm giữa bãi này cách mép đường chuẩn là 3m37, cách điểm giữa cuối vết (1) là 80cm.
(4): 02 mảnh nhựa màu đen phát hiện trên mặt đường trên diện 6x3cm. Điểm giữa 02 mảnh nhựa này cách mép đường chuẩn là 1m82, cách vị trí đầu tử thi là 3m74.
(5): 01 mảnh nhựa màu đen phát hiện trên mặt đường kích thước 3x1,3cm. Vị trí mảnh nhựa này cách mép đường chuẩn là 3m22, cách điểm giữa 02 mảnh nhựa ở vị trí số (4) là 3m34.
Quá trình khám nghiệm thu mẫu chất màu nâu đỏ tại vị trí (1) và các mảnh nhựa màu đen tại vị trí (4) và (5) trên sơ đồ hiện trường phục vụ công tác giám định. (Bút lục số 79-82).
Kết quả thực nghiệm điều tra: “Điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 88A- X di chuyển trên đường TL306 theo hướng từ xã B đi TT.L, từ phía xa lại gần vị trí anh Phạm Minh H nằm trên đường. Khi di chuyển, xe ô tô 88A-X trong trạng thái bật đèn chiếu sáng gần. Kết quả: ở khoảng cách giữa đầu xe ô tô với gót chân anh H là 50m thì quan sát thấy anh H nằm trên đường; ở khoảng cách giữa đầu xe ô tô với gót chân anh H là 32m thì quan sát rõ anh H nằm trên đường”.
Khám nghiệm phương tiện: Đối với xe ô tô biển kiểm soát 88A-X: loại xe ô tô con Grandi10, màu sơn bạc đã qua sử dụng, số khung: W10AHN001221, số máy: G4LAHM457803.
- Phần bên phải cạnh dưới ba đờ sốc đầu xe bằng nhựa bị gãy vỡ rời KT 19x14cm để hở cá hãm và khung kim loại bên trong, điểm gần nhất cách cạnh ngoài ba đờ sốc bên phải 55cm.
- Phần khung kim loại phía trong ba đờ sốc bị vỡ, bị đẩy cong từ trước về sau trên diện 35cm, lõm sâu 5cm, tại vết lõm kim loại này bị bong tróc sơn, mép dưới bị trượt xước sạch đất bẩn. Mặt dưới khung kim loại này là phần nhựa màu đen bị gãy vỡ nham nhở.
- Cạnh trước khung kim loại bảo vệ mặt dưới thước lái có vết trượt sạch vết bẩn và bám dính chất màu thâm nâu, mô cơ trên diện 22x9cm.
- Mặt dưới gầm bên trái xe có vết trượt và bám dính chất màu thâm nâu trên diện dài 1,35m từ giáp thước lái đến bình xăng và rộng 5cm.
Quá trình khám nghiệm thu giữ mảnh nhựa màu đen dưới gầm máy xe và mẫu chất màu thâm nâu dưới gầm xe.
Khám nghiệm tử thi: Tại kết luận pháp y về tử thi số 1541/KLGĐTT- PC09-PY ngày 02/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận về tử thi anh Phạm Minh H:
“* Kết quả khám nghiệm:
- Trên tử thi Phạm Minh H có các vết xây sát, mài trượt, rách da vùng đầu, ngực, bụng, lưng, tay, chân.
- Vỡ xương chính mũi, xương gò má hai bên, gãy phức tạp xương hàm trên và xương hàm dưới.
- Gãy rời 1/3 trên xương ức; gãy cung bên các xương sườn 4, 5, 6, 7, 8 bên phải; gãy cung bên các xương sườn 5, 6, 7, 8 bên trái. Rách nhu mô phổi phải tương ứng các vị trí gãy xương sườn.
- Vỡ gốc tĩnh mạch chủ, rách thất trái.
- Mặt trước gan có nhiều vết rách, vỡ phức tạp.
* Nguyên nhân chết của Phạm Minh H: Chấn thương ngực – bụng trên người bị đa chấn thương.” Giám định nồng độ cồn, ma túy, ADN và chất độc:
- Biên bản làm việc hồi 09 giờ 15 phút ngày 05/5/2023: Tiến hành kiểm tra nồng độ cồn qua hơi thở đối với Đặng Văn B. Kết quả: 0,000mg/l.
- Kết luận giám định AND số HT239.23/PY-XNSH ngày 15/5/2023 của Viện pháp y Quân đội kết luận “Dấu vết trên tăm bông thu chất bám dính trên mặt đường tại vị trí số 1 (ký hiệu A1); dấu vết bám dính dưới gầm xe ô tô BKS 88A-X (ký hiệu A2) có máu người; có AND nhiễm sắc thể thường trùng khớp với AND nhiễm sắc thể thường từ mẫu máu của tử thi Phạm Minh H”.
- Kết luận giám định số 599/PY-XNĐH ngày 25/5/2023 của Viện pháp y Quân đội kết luận “Không tìm thấy các chất ma túy trong mẫu nước tiểu của Đặng Văn B”.
- Kết luận giám định số 585/PY-XNĐH ngày 25/5/2023 của Viện pháp y Quân đội kết luận “Không tìm thấy Ethanol trong máu của Phạm Minh H; Không tìm thấy các chất ma túy trong mẫu máu của Phạm Minh H; Không tìm thấy các chất độc trong mẫu máu của Phạm Minh H”.
Giám định hóa học: Kết luận giám định số 1452/KLGĐ ngày 24/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận “mảnh nhựa màu đen thu trên mặt đường tại vị trí số (4) và (5) trong hiện trường gửi giám định cùng loại chất liệu với mảnh nhựa màu đen thu ở dưới gầm máy xe ô tô BKS 88A-X được gửi làm mẫu so sánh”.
Giám định kỹ thuật số: Kết luận giám định số 1701/KL-KTHS ngày 16/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận đối với đoạn video thu giữ từ camera hành trình xe ô tô của B. Kết quả: Trích xuất được 05 ảnh mô tả diễn biến phù hợp với diễn biến vụ tai nạn giao thông trên.
Vật chứng vụ án: 01 xe ô tô biển kiểm soát 88A-X cùng giấy đăng ký xe; 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Đặng Văn B.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Đặng Văn B đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 60.000.000 đồng bao gồm: tiền mai táng phí cho anh H 30.000.000 đồng, tiền bồi thường tổn thất tinh thần 30.000.000đồng. Ông Phạm Hồng M (bố đẻ anh H) và bà Trần Thị Tuyết M (mẹ đẻ anh H) đã nhận đủ số tiền trên, không yêu cầu bồi thường gì khác và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Đặng Văn B.
Trong quá trình điều tra, Đặng Văn B đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Bản Cáo trạng số 118/CT-VKS ngày 17/11/2023, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Đặng Văn B về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Đặng Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đặng Văn B đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Văn B phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ", áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Đặng Văn B từ 18 tháng đến 21 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách của án treo; không phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo đã bồi thường cho gia đình 60.000.000đồng và đại diện gia đình bị hại không đề nghị gì về bồi thường dân sự.
Xử lý vật chứng: Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Đặng Văn B.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo Đặng Văn B nói lời nói sau cùng: Bị cáo không nói gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa bị cáo Đặng Văn B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định…. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định:
Khoảng 02 giờ 25 phút ngày 05/5/2023, Đặng Văn B có giấy phép lái xe ô tô hạng B2 điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 88A-X nhãn hiệu Hyundai đi theo đường TL 306 từ xã B, huyện L đi xã T, huyện L, khi đi đến địa phận thuộc thôn G, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc do không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ nên đã đâm vào anh Phạm Minh H đang nằm ở giữa đường. Hậu quả làm anh Phạm Minh H tử vong. Nguyên nhân tử vong là do chấn thương ngực – bụng trên người bị đa chấn thương.
Hành vi điều khiển xe mô tô của Đặng Văn B đi không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ dẫn đến tai nạn giao thông, gây hậu quả nghiêm trọng đã vi phạm khoản 3 Điều 4; khoản 1 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải.
Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Đặng Văn B đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000đ đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a) Làm chết người”....
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo xâm phạm đến sự an toàn và ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của người tham gia giao thông, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật là cần thiết để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo lần đầu phạm tội, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho đại diện người bị hại; đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú; người bị hại cũng có một phần lỗi đó là đã nằm trên đường giao thông vi phạm quy định tại điểm i, khoản 2 Điều 35 Luật giao thông đường bộ. Nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Sau khi cân nhắc, xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào, có nhân thân tốt và nơi cư trú ổn định rõ ràng nên không cần thiết áp dụng hình phạt tù mà cho hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối bị cáo Đặng Văn B.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 60.000.000 đồng, đại diện hợp pháp của bị hại không có đề nghị gì về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6]. Về vật chứng: Đối với 01 xe ô tô biển kiểm soát 88A-X cùng giấy đăng ký xe là tài sản hợp pháp của bị cáo Đặng Văn B. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch đã trả lại cho bị cáo là phù hợp.
Đối với 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Đặng Văn B cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 thẻ nhớ là tài liệu chứng minh tội phạm nên cần lưu trữ trong hồ sơ vụ án.
[7]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Đặng Văn B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Đặng Văn B 01 (Một) năm 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm 02 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Đặng Văn B cho Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách của án treo, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại Đặng Văn B: 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Đặng Văn B.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/11/2023 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch).
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đặng Văn B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 105/2023/HS-ST
Số hiệu: | 105/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về