Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 10/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 15/01/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 331/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 342/2023/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Lê Hoàng T, sinh năm 2002 tại tỉnh A. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ H, ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh A; Chỗ ở: D ấp D, xã T, huyện B, Thành phố H; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn Ú, sinh năm 1975 và bà Phạm Thị D, sinh năm 1974; vợ tên Danh Thị Thanh N, sinh năm 2004; có 01 người con sinh năm 2023; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 01/8/2023. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Ông Bùi Hữu T1, sinh năm: 1978 (chết ngày 18/02/2023)

- Cháu Bùi Thị Cẩ m T2, sinh năm: 2019 Người đại diện hợp pháp của bị hại ông Bùi Hữu T1:

- Cháu Bùi Minh T3, sinh năm: 2005 (có mặt)

- Cháu Bùi Tân T4, sinh năm: 2008

- Cháu Bùi Thị Cẩ m T2, sinh năm: 2019 - Bà Trầ n Thị Bích L, sinh năm 1986 Cùng địa chỉ: Ấp G, xã M, huyệ n B, tỉnh Long An.

Người giám hộ của trẻ T4, T2 là bà Trầ n Thị Bích L. (có mặt)

Người đại diện hợp pháp của bị hại cháu Bùi Thị Cẩm T2: Bà Trầ n Thị Bích L, sinh năm: 1986; địa chỉ: Ấp G, xã M, huyện B, tỉnh Long An. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 18/02/2023, sau khi đã sử dụng rượu bia, Lê Hoàng T điều khiển xe mô tô biển số 67F1 – xxxx (không có giấy phép lái xe) lưu thông trên đườ ng D h ư ớ ng từ đường Q về đ ường N. Khi đến đoạn đường cong trước địa chỉ A đ ườ ng D, Ấp D, xã T, huyệ n B, Thành phố H, T điều khiển xe mô tô lấn sang trái phần đường chiều ngược lại thì phát hiện ông Bùi Hữu T1 điều khiển xe mô tô biển số 63K7 – xxxx chở cháu Bùi Thị Cẩ m T2 (con gái ông T1) nên T bóp thắng tay và đánh tay lái xe về bên trái để tránh xe mô tô của ông T1 nhưng do khoảng cách quá gần nên đã xảy ra va chạm với xe mô tô của ông T1 làm ông T1, cháu T2 cùng phương tiện ngã xuống đường, T và xe mô tô biển số 67F1 - xxxx văng vào lề đường bên trái. Sau tai nạn, ông T1 tử vong tại chỗ, cháu T2 và T bất tỉnh, được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệ nh viện B.

Nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyệ n B phối hợp Viện kiểm sát nhân dân huyện B tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, điều tra làm rõ nguyên nhân vụ tai nạn.

Kết quả xét nghiệm nồng độ cồn của Lê Hoàng T là 221,8 mg/dl.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 297/TT.23 ngày 03/4/2023 của Trung tâm Pháp y Sở Y đối với Bùi Hữu T1:

“Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não/Đa chấn thương.

Kết quả xét nghiệm độc chất: Nồng độ Ethanol trong máu tĩnh mạch đùi:

188,86mg/100ml”.

Kết luận giám định số 3252/KL-KTHS ngày 18/5/2023 củaa Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố H kết luận:

“1. Dấu vết trượt xước, gãy vỡ, biến dạng các chi tiết phía trước bên phải xe mô tô biển số 67F1- xxxx (bánh trước, chắn bùn, giảm xóc, ốp đầu xe, đèn chiếu sáng, tay lái, tay thắng, ốp thân xe, chân thắng, để chân trước) có chiều từ trước về sau phù hợp với dấu vết trượt xước, gãy vỡ, biến dạng các chi tiết phía trước bên phải xe mô tô biển số 63K7 – xxxx (bánh trước, chắn bùn, giám xóc, ốp đầu xe, đèn chiếu sáng, tay lái, tay thắng, chân thắng, yếm, lốc máy, ốp thân xe) có chiều từ trước về sau.

2. Khi xảy ra tai nạn giao thông, xe mô tô biển số 63K7 – xxxx lưu thông trên đường D theo hướng từ cầu C đ i Qu ố c lộ A; xe mô tô biển số 67F1-xxxx lưu thông theo hướng ngược lại.

3. Phía trước bên phải xe mô tô biển số 67F1 – xxxx và phía trước bên phải xe mô tô biển số 63K7 – xxxx là vị trí va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện khi xảy ra tai nạn giao thông. Vị trí này chiếu xuống mặt đường thuộc phần đường bên phải đư ờng D theo hướng từ cầu C đi Qu ố c lộ A.

4. Khi xảy ra va chạm, xe mô tô biển số 67F1 – xxxx và xe mô tô biển số 63K7-xxxx chuyển động thẳng đứng.

5. Không ghi nhận vết cày để lại tại hiện trường.

6. Xe mô tô biển số 63K7 - xxxx và xe mô tô biển số 67F1 -xxxx không va chạm với người, phương tiện, vật cản khác khi xảy ra tai nạn giao thông”.

Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 705/KLTTCT TTPY.2023 ngày 06/12/2023 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế Thành phố H kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Bùi Thị Cẩ m T2 tại thời điểm giám định là 29%.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyệ n B, Lê Hoàng T đã khai nhận toàn bộ diễn biến vụ tai nạn giao thông như trên, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, các kết luận giám định pháp y, kết luận giám định về dấu vết va chạm, hình ảnh camera ghi nhận vụ tai nạn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng trong vụ án:

- 01 xe mô tô biển số 63K7 – xxxx và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ngô Trọ ng S.

- 01 xe mô tô biển số 67F1 –xxxx và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Phạ m Thị D.

- 01 USB ghi nhận hình ảnh liên quan đến vụ tai nạn, lưu đính kèm hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 13 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Thành phố H đã truy tố bị cáo Lê Hoàng T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260, Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Hoàng T 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”; xử lý vật chứng: bảo lưu 01 video chứa hình ảnh vụ tai nạn.

Bị cáo Lê Hoàng T khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm và đề nghị giảm nhẹ mức hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan điều tra, truy tố trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Lê Hoàng T khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông lập lúc 22 giờ 50 phút ngày 18/02/2023, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông lập lúc 22 giờ 50 phút ngày 18/02/2023, bản ảnh hiện trường cùng các chứng cứ, tài liệu, tang vật có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra tại phiên tòa.

[3] Căn cứ biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông cho thấy: Lỗi chính trong vụ tai nạn giao thông là do bị cáo Lê Hoàng T điều khiển xe mô tô biển số 67F1 – xxxx lưu thông khi nồng độ cồn trong người vượt mức quy định (221,8 mg/dl), không có giấy phép lái xe, lưu thông không đúng phần đường quy định gây tai nạn giao thông làm ông Bùi Hữu T1 tử vong, cháu Bùi Thị Cẩ m T2 bị thương tích với tỷ lệ 29% nên hành vi của bị cáo Lê Hoàng T đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Do bị cáo không tuân thủ các quy tắc trong luật giao thông đường bộ nên đã xâm hại đến tính mạng của người khác được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ, tạo tâm lý hoang mang lo sợ cho mọi người khi tham gia giao thông, nhất là tình hình giao thông phức tạp như hiện nay. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng nên cần phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.

[5] Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, khắc phục hậu quả gia đình bị hại đã có đơn xin bãi nại cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về vật chứng vụ án:

[7] 01 xe mô tô biển số 63K7 – xxxx và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ngô Trọ ng S. Qua xác minh xe mô tô trên do anh Ngô Trọ ng S đứng tên chủ xe. Anh S đã bán xe mô tô cho ông Bùi Hữu T1 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả xe mô tô trên và giấy đăng ký xe cho bà Trầ n Thị Bích L nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] 01 xe mô tô biển số 67F1 –xxxx và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Phạ m Thị D. Qua xác minh xe mô tô trên do bà Phạ m Thị D (mẹ của T) đứng tên chủ xe, bà D mua xe và cho T sử dụng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả xe mô tô trên và giấy đăng ký xe cho T vào ngày 01/8/2023 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] 01 USB ghi nhận hình ảnh liên quan đến vụ tai nạn giao thông cần bảo lưu hồ sơ vụ án.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã hỗ trợ gia đình bị hại 10.000.000 đồng và gia đình bị hại đã có đơn bãi nại đối với bị cáo.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[12] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm truy tố của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo và chấp nhận đề nghị của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vi phạm qui định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/8/2023.

Về vật chứng: Bảo lưu hồ sơ vụ án 01 USB.

Về dân sự : Ghi nhận đại diện bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: bị cáo, đại diện bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 10/2024/HS-ST

Số hiệu:10/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về