Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 02/2020/HS-PT

TÒA ÁN QUÂN SỰ THỦ ĐÔ HÀ NỘI

BẢN ÁN 02/2020/HS-PT NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại Phòng xử án Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo Trần Ngọc S do có kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Tòa án quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo: Trần Ngọc S; tên gọi khác: không; giới tính: nam; sinh ngày 24 tháng 8 năm 1999, tại Phú Thọ; nơi cư trú: xã L, huyện N, tỉnh Phú Thọ (nơi đơn vị đóng quân); cấp bậc, chức vụ, đơn vị khi phạm tội: Binh nhất, Chiến sĩ, Tiểu đoàn X, Lữ đoàn Y, Quân khu Z; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Phương L và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; về nhân thân: Chưa bị kết án, xử lý hành chính hay xử lý kỷ luật lần nào; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 20/08/2019 đến ngày 20/12/2019; hiện đang được tại ngoại tại nơi cư trú; Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Huy L có kháng cáo: Bà Phan Thị M, sinh ngày 05 tháng 10 năm 1967; nghề nghiệp: Làm ruộng; nơi cư trú: khu 2, xã L, huyện K, tỉnh Phú Thọ; ủy quyền cho ông Vũ Huy S1 (là chồng), sinh ngày 10 tháng 8 năm 1967; nghề nghiệp: làm ruộng; nơi cư trú: khu 2, xã L, huyện K, tỉnh Phú Thọ; Có mặt.

- Bị hại:

Vũ Huy L, sinh ngày 28 tháng 11 năm 1990, tại Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 2, xã L, huyện K, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Làm ruộng; anh Vũ Huy L chết ngày 13/7/2019.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc S là quân nhân thuộc Lữ đoàn X, Quân khu Z đang nghỉ phép tại gia đình ở Khu 15, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/7/2019, Đỗ Tuấn A (bạn cùng xã với S) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu JIALING biển kiểm soát 19H6-62xx chở S và Trần Văn T đi đám cưới Nguyễn Quang T tại Khu 6, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Tại đám cưới, S ngồi ăn cơm, uống rượu cùng mâm với Tuấn A và một số người khác. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, S hỏi mượn xe mô tô của Tuấn A để đi sang nhà gái ở xã B, huyện V, thành phố Hà Nội chơi. Tuấn A đồng ý và đưa xe mô tô biển kiểm soát 19H6-62xx cho S; một mình S điều khiển xe đi qua cầu Trung Hà theo Quốc lộ 32 hướng đi Sơn Tây; khi đi qua Công viên Vĩnh Hằng, S phát hiện bị lạc đường nên đã quay đầu xe đi theo đường bên phải hướng Sơn Tây đi cầu Trung Hà.

Khi đến khu vực gần vòng xuyến giao giữa Quốc lộ 32 với đường dẫn lên cầu Văn Lang thuộc địa phận thôn H, xã S, huyện V, thành phố Hà Nội, S quan sát thấy đoạn đường này có dải phân cách cứng ở giữa đường, S đã điều khiển xe đi sang bên trái dải phân cách (đi trên phần đường ngược chiều) vào ngã ba vòng xuyến. Khi đi đến giữa ngã ba sát bên trái vòng xuyến (hướng Sơn Tây đi Trung Hà) thì phần đầu xe mô tô do S điều khiển đã đâm chếch chéo vào trục dọc thân bên phải xe mô tô nhãn hiệu SYM ANGEL, biển kiểm soát 28F4-74xx do Vũ Huy L (sinh năm 1990; trú tại: khu 2, xã L, huyện K, tỉnh Phú Thọ) điều khiển đi ngược chiều (hướng Trung Hà đi Sơn Tây), phía sau chở anh Bùi Kim T (sinh năm 1988; trú tại: khu 4, xã L, huyện K, tỉnh Phú Thọ).

Sau khi tai nạn xảy ra, Trần Ngọc S, Vũ Huy L và Bùi Kim T được một số người dân đưa đi cấp cứu. Hậu quả: Vũ Huy L đã tử vong cùng ngày tại Bệnh viện Quân y E; Trần Ngọc S bị chấn thương sọ não, gãy rạn xương bánh chè trái điều trị tại Bệnh viện quân y E từ ngày 13/7/2019 đến ngày 25/7/2019; Bùi Kim T bị xây xát nhẹ. Xe mô tô biển kiểm soát 19H6-62xx và xe mô tô biển kiểm soát 28F4-74xx bị hư hỏng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Tòa án quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội đã Quyết định:

Về hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc S phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a, điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt Trần Ngọc S 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và đương sự.

Ngày 11 tháng 3 năm 2020, bị cáo Trần Ngọc S và người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Huy L là bà Phan Thị M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo vì lý do: Việc làm của bị cáo đã vi phạm các quy định của pháp luật, được đưa ra xét xử và mức án là đúng quy định của pháp luật. Sự việc xảy ra là ngoài mong muốn của bị cáo, sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã thành khẩn khai báo và đã cùng với gia đình tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại, khắc phục hậu quả, gia đình bị cáo cũng thường xuyên thăm hỏi động viên gia đình bị hại. Bản thân bị cáo có nhân thân tốt. Hiện nay, gia đình bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, gia đình làm ruộng, mẹ đẻ bị cáo bị suy thận mổ 3 lần, không có khả năng lao động, bị cáo là lao động chính trong gia đình.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo, ông Vũ Huy S1 giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Tranh luận tại phiên tòa, sau khi phát biểu ý kiến về nội dung kháng cáo, phân tích, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đại diện Viện kiểm sát quân sự Thủ đô Hà Nội nêu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc S, người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Huy L là bà Phan Thị M là hợp lệ, trong thời gian luật định. Tòa án quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội xét xử bị cáo Trần Ngọc S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đôi, bổ sung năm 2017) là đã xem xét toàn diện, áp dụng đầy đủ, đúng quy định của pháp luật.

Vì các lý do trên, căn cứ điểm c khoản 3 Điều 260; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc S, người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Huy L là bà Phan Thị M; giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Tòa án quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội đã tuyên đối với bị cáo Trần Ngọc S. Áp dụng điểm a, điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Trần Ngọc S 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tự bào chữa cho mình, bị cáo Trần Ngọc S, cũng như tranh luận của ông Vũ Huy S1 đều nhất trí như tội danh, hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo; đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được về với gia đình và cho hưởng án treo như nội dung kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc S, người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Huy L là bà Phan Thị M là hợp lệ.

[2] Tại phiên Toà phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc S thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như tội danh mà Bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng pháp luật. Xem xét toàn diện vụ án, HĐXX phúc thẩm thấy Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Ngọc S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại nêu: Bị cáo đã thành khẩn khai báo và đã cùng với gia đình tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại, khắc phục hậu quả. HĐXX thấy, các tình tiết này đã được Toà án cấp sơ thẩm xem xét và áp dụng điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo một cách phù hợp, nên cấp phúc thẩm không có cơ sở giảm nhẹ thêm.

Về lý do bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại vì: Bị cáo có nhân thân tốt, gia đình bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, gia đình làm ruộng, mẹ đẻ bị cáo bị suy thận mổ 3 lần, không có khả năng lao động, bị cáo là lao động chính trong gia đình. HĐXX thấy đây không phải là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhưng Toà án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét nhân thân bị cáo khi quyết định hình phạt là phù hợp.

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã cung cấp cho Tòa án, Quyết định số 292/QĐ-LĐTBXH40 ngày 03 tháng 10 năm 2016 về việc trợ cấp một lần đối với thanh niên xung phong cho ông Trần Phương T (là ông nội của bị cáo); Đơn xin giảm nhẹ hình phạt của ông Trần Phương L (là bố đẻ của bị cáo). HĐXX thấy đây không phải là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nên không có cơ sở để chấp nhận, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xem xét toàn diện vụ án, HĐXX thấy: Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông không có Giấy phép lái xe, đi không đúng làn đường, phần đường quy định và trong tình trạng đã uống rượu với nồng độ cồn đo được là 74,16mg/100ml máu (vượt quá mức quy định là 50mg/100ml máu), nên đã vi phạm khoản 8 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 58 Luật Giao thông đường bộ; lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo và gây hậu quả 01 người bị chết, làm hư hỏng phương tiện; còn gây mất trật tự, an toàn giao thông đường bộ, thể hiện ý thức thiếu trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo, ông Vũ Huy S không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Căn cứ tính chất, mức độ hậu quả do hành vi của bị cáo gây nên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Trần Ngọc S 03 năm 06 tháng tù là phù hợp. Do vậy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại là không có căn cứ chấp nhận. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thủ đô Hà Nội về việc không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.

[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 260; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc S, người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Huy L là bà Phan Thị M; giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Tòa án quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội đã tuyên đối với bị cáo Trần Ngọc S. Nay tuyên:

Áp dụng điểm a, điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Trần Ngọc S 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Trần Ngọc S phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 02/2020/HS-PT

Số hiệu:02/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án quân sự
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về