TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 01/2024/HS-ST VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 09 tháng 01 năm 2024, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:
Đoàn Ngọc Đ, sinh năm 1992, tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: thôn Ng, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: bác sỹ thú y; con ông Đoàn L, sinh năm 1966 và bà Mai Thị B, sinh năm 1972; nơi cư trú: thôn Xuân Tam Mỹ, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị; vợ: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1993; nơi cư trú; thôn Ngô Xá Đông, xã T, huyện T, tỉnh Quảng; con: có 01 người con, sinh năm 2019.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khởi nơi cư trú” - Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
+ Cháu Nguyễn Thị Hoài T, sinh ngày 28/9/2013; nơi cư trú: thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị - Có mặt.
Đại diện hợp pháp đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hạị Nguyễn Thị Hoài T: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1976; nơi cư trú: thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị (Là bố đẻ của bị hại Nguyễn Thị Hoài T) - Có mặt.
+ Cháu Nguyễn Hoàng Phương A, sinh ngày 23/01/2011; nơi cư trú: thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị - Vắng mặt.
Đại diện hợp pháp đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hạị Nguyễn Hoàng Phương A: ông Nguyễn Đình V, sinh năm 1984; nơi cư trú: thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị (Là bố đẻ của bị hại Nguyễn Hoàng Phương A) - Có mặt.
- Đại diện Trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã T, huyện T (Trường cháu Nguyễn Thị Hoài T đang theo học) là bà Hoàng Thị T - Phó hiệu trưởng - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 09 tháng 9 năm 2023, sau khi uống bia với bạn ở ngã tư Hội Yên, xã Hải Quế, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Đoàn Ngọc Đ một mình điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha, biển kiểm soát 74D1-X44, với tốc độ khoảng 40-45 km/h chạy về nhà mình tại thôn Ngô Xá Đông, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị, theo Quốc lộ 49C hướng từ Uỷ ban nhân dân xã T, huyện T đến Uỷ ban nhân dân xã Triệu Tài, huyện T. Khi đến đoạn đường km24+030, QL49C (trước trường cấp 2 xã T), thuộc địa phận thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T, Đ phát hiện phía trước có xe đạp điện do cháu Nguyễn Hoàng Phương A (sinh năm 2011, trú tại thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T) điều khiển chạy cùng chiều, ngồi phía sau là cháu Nguyễn Thị Hoài T (sinh năm 2013, trú tại thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T). Lúc này trời tối, thời tiết khô ráo, Nguyễn Hoàng Phương A điều khiển xe cách mép đường bên phải khoảng 01m và đang giảm tốc độ để chuẩn bị rẻ phải vào chùa Ngô Xá, xã T thì Đoàn Ngọc Đ điều khiển xe phía sau, do không giảm tốc độ, không giữ khoảng cách an toàn nên tông vào phía sau xe đạp điện. Hậu quả: cháu Nguyễn Thị Hoài T bị thương, hai xe hư hỏng nhẹ.
Tại Bản kết luận giám định thương tích số: 537-23/KLTTCT-GĐPY ngày 31/10/2023 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị Hoài T tại thời điểm giám định là: 63% .
Tại Bản kết luận định giá số: 23/KLĐG- ngày 04/10/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện T tỉnh Quảng Trị đối với yêu cầu định giá tài sản số 23/YC-ĐGTS ngày 02/10/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T trong vụ “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” xảy ra ngày 09/9/2023 tại Km 24+030 Quốc lộ 49C thuộc địa phận thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị, tổng thiệt hại của xe đạp điện là: 460.000 đồng.
Tại bản kết luận giám định số 980/KLGĐ-PC09 ngày 09/10/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:
1. Vị trí va chạm giữa xe mô tô BKS 74D1- X44 và xe đạp điện là: Mặt lăn bánh trước xe mô tô BKS 74D1 X44 tác động vào bên phải dè chắn bùn và gọng bắt dè chắn bùn bánh sau xe đạp điện.
2. Vị trí va chạm giữa xe mô tô BKS 74D1- X44 và xe đạp điện trên hiện trường là: Khu vực phía trước điểm đầu dấu vết ký hiệu số (1) được ghi nhận và mô tả trong hồ sơ khám nghiệm, trên phần đường theo chiều đi từ UBND xã T đến UBND xã Triệu Tài.
Tại biên bản kiểm tra nồng độ cồn của Đoàn Ngọc Đ vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 09/9/2023 của Công an huyện T và phiếu kiểm tra nồng độ cồn số ID 890904, biên bản 00362 ngày 09/9/2023 thể hiện nồng độ cồn của Đoàn Ngọc Đ là 0.825 mg/L khí thở.
Cáo trạng số 34/CT-VKSTP ngày 28/11/2023, của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Trị truy tố Đoàn Ngọc Đôn về tội: "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc Đ phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".
Áp dụng các điểm a, b khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, khoản 1, 2 , 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt Đoàn Ngọc Đ từ 26 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi thời hạn tù; Về trách nhiệm dân sự: bị cáo và gia đình bị hại đã tự thỏa thuận việc bồi thường trong giai đoạn điều tra, truy tố, tại phiên tòa họ không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết; Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện hợp pháp đồng thời là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hạị Nguyễn Thị Hoài T, Nguyễn Hoàng Phương A, ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Đình V: Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Đoàn Ngọc Đ đã tự nguyện khắc phục và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình các bị hại. Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Đình V không có yêu cầu gì thêm về vấn đề trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, về trách nhiệm hình sự xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Đoàn Ngọc Đ là người không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định nhưng lại cố tình điều khiển xe mô tô tham gia giao thông đường bộ và khi điều khiển lại không chấp hành nghiêm chỉnh Luật giao thông đường bộ cụ thể như sau: có sử dụng rượu bia mà trong hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định (0.825 mg/lít khí thở), không giảm tốc độ, không giữ khoảng cách an toàn khi tham gia giao thông nên đã gây tai nạn vào tối ngày 09/9/2022 tại Km 24+030 QL49C thuộc địa phận thôn Ngô Xá Thanh Lê, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị, hậu quả làm cháu Nguyễn Thị Hoài T bị tổn thương cơ thể 63%; gây thiệt hại về tài sản đối với xe đạp điện của cháu Nguyễn Hoàng Phương A là 460.000 đồng. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Đoàn Ngọc Đ đã vi phạm vào khoản 8, khoản 9 Điều 8; Điều 12 Luật giao thông đường bộ; khoản 5 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ngày 29/8/2019 quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm vào quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ và đã có đủ yếu tố cấu thành tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" được quy định xử phạt theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và quá trình nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: bị cáo là người không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định, nhưng vẫn cố tình điều khiển xe mô tô tham gia giao thông đường bộ. Khi điều khiển phương tiện là xe mô tô lại không làm chủ tốc độ; điều khiển xe mô tô mà trong hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, khi điều khiển tỏ ra tự tin vào khả năng xử lý của mình nên đã gây ra tai nạn, hậu quả: làm một người bị thương với tỷ lệ thương tích 63% và thiệt hại về tài sản của một người khác có giá trị 460.000 đồng. Vì vậy, cần xử lý một cách nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy: cần áp dụng các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo vì: sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả cho gia đình các bị hại; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo vì: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đại diện hợp pháp của các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo; hiện tại bị cáo đang phải nuôi con trai bị bệnh rối loạn phổ tự kỷ có xác nhận của Trung tâm hỗ trợ và phát triển giáo dục hòa nhập Bình Minh (thuộc UBND tỉnh Quảng Trị). Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.
Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quá trình nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: lẽ ra cần phải xử phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng thấy rằng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rỏ ràng, có nghề nghiệp ổn định, hiện tại bị cáo phải nuôi con nhỏ bị bệnh rối loạn phổ tự kỷ; tại phiên tòa đại diện hợp pháp các bị hại đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo vì hiện tại sức khỏe của bị hại đã trở lại bình thường, không ảnh hưởng gì đến quá trình sinh sống và học tập của bị hại. Vì vậy, Hôi đồng xét xử thấy, không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
Bị cáo bị áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, vì vậy cần ra Quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh số 38/2023/LCĐKNCT-TA ngày 29/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện T đối với bị cáo Đoàn Ngọc Đ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về trách nhiệm dân sự: trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình các bị hại, nay đại diện hợp pháp của các bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về xử lý vật chứng: quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ và làm thủ tục trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 74D1- X.44, nhãn hiệu YAMAHA cho bị cáo Đoàn Ngọc Đ trả lại 01 xe đạp điện, nhãn hiệu YAMAHA màu sơn: đỏ đen cho ông Nguyễn Đình V - bố của bị hại Nguyễn Hoàng Phương A. Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Hoàng Phương A không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về trách nhiệm hình sự:
- Tuyên bố bị cáo Đoàn Ngọc Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
- Áp dụng các điểm a, b khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đoàn Ngọc Đ 26 (hai mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 52 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/01/2024).
Giao bị cáo Đoàn Ngọc Đ cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Đoàn Ngọc Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Báo cho bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp các bị hại có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án trên một cấp để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 01/2024/HS-ST
Số hiệu: | 01/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về