TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 01/2024/HS-ST NGÀY 04/01/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 04 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2023/HSST ngày 23 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Sùng Seo N, sinh ngày 09 tháng 9 năm 1984 tại huyện B, tỉnh Lào Cai. Nơi thường trú: Bản Nậm Nhừ 2, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên; nơi tạm trú và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Mông; căn cước công dân số: 01X4002117, ngày cấp 20/4/2021, nơi cấp Cục Cảnh sát QLHC về TTXH; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sùng Seo P, sinh năm 1952 và bà Tráng Thị D (đã chết); có vợ là Thào Thị S (đã chết); có 05, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Sùng Seo N: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1979 là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H; có mặt.
- Bị hại: Bà Thào Thị S, sinh năm 1980 (đã chết); nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Sùng Seo C, sinh năm 2004; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; vắng mặt.
- Người làm chứng: Bà Phàn Thị H1, sinh năm 1965; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 00 phút, ngày 03/6/2023 Sùng Seo N, sinh năm 1984, HKTT: Bản N, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên (Tạm trú tại thôn Bản Túm, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang) điều khiển xe mô tô BKS: 27L1-Y.95, nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE RSX F1, màu sơn: X - Đen, chở người ngồi phía sau là Thào Thị S, sinh năm 1980 (vợ N) trú cùng địa chỉ, đi từ xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai sang xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang chơi. Khi đi đến km 03 + 800m, đường Q (B - Q) (Đầu cầu N) thuộc địa phận thôn T, thị trấn V, huyện B, N dừng xe nghỉ ở cạnh đường. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, N tiếp tục điều khiển xe mô tô chở vợ phía sau đi theo hướng Q - B với vận tốc khoảng 30km/h, đi được khoảng 100m N phát hiện phía trước có xe mô tô BKS 23H6-N6 do bà Phàn Thị H1, sinh năm 1965, trú tại thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang (xe mô tô của Phàn Phụ H2, sinh năm 1969 trú cùng địa chỉ với H1, Chồng của H1) điều khiển đang dừng ở phần đường bên phải hướng Q đi B, phía sau yên xe chở bó cây ngô đang bật đèn tín hiệu xi nhan báo rẽ trái và phía ngược chiều có 01 xe ô tô tải thùng màu trắng không rõ biển kiểm soát đang di chuyển theo hướng B - Q. Sau khi xe ô tô ngược chiều đi qua, Phàn Thị H1 điều khiển xe mô tô đi chếch chéo sang đường (từ bên phải đường sang bên trái đường rẽ vào đường Đ, thôn T, thị trấn V, huyện B), thấy vậy, N đã điều khiển xe mô tô đi sang làn đường bên trái tránh xe mô tô của Phàn Thị H1, nhưng phần đầu xe mô tô của N đã va chạm vào phần phía sau sườn bên trái xe mô tô do H1 điều khiển làm 02 xe mô tô đổ xuống đường N, Thào Thị S và Phàn Thị H1 đều bị ngã xuống đường, Thào Thị S bị thương nặng được Sùng Seo N và Phàn Thị H1 đưa đi cấp cứu. Đến khoảng 03 giờ sáng ngày 05/6/2023 Thào Thị S tử vong tại Bệnh viện đa khoa tỉnh H.
Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông được tính theo hướng (B đi Q) trên mặt đường rải nhựa, phẳng, đoạn đường thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, hai đầu đường có chiều hướng cua từ phải qua trái theo hướng B đi Q. Đường có vạch kẻ sơn màu vàng đứt đoạn chia làm hai phần đường cho hai chiều xe chạy, tại nơi xảy ra tai nạn giao thông là ngã ba đường nhựa rẽ vào đội 2, thôn T, thị trấn V, huyện B hai bên đường có các hộ dân sinh sống. Mặt đường nhựa rộng 6,70m; Hai bên đường không có lề; Mặt đường nhựa ngã ba rẽ đi vào đội B, thôn T, thị trấn V rộng 07m; Lấy mép đường nhựa phải làm chuẩn để đo đến các vị trí, dấu vết để lại trên hiện trường. Lấy mép ngoài cột biển báo “Cầu Nậm Khóa Lý trình Km 3+916,03” tại mép đường nhựa phải làm điểm cố định. Căn cứ vào các dấu vết để lại trên hiện trường, xác định điểm va chạm nằm trên mặt đường nhựa phải hướng B đi Q, từ điểm va chạm đến mép đường nhựa bên phải = 2,30m; đến vạch sơn màu vàng đứt đoạn, tâm đường nhựa = 01m; đến điểm đầu vết cày đứt đoạn (Vị trí số 1) = 0,90m; đến trục bánh sau xe mô tô BKS: 23H6-N6 (Vị trí số 2) = 3,35m; đến trục bánh sau xe mô tô BKS:
27L1-Y.95 (Vị trí số 3) = 3,25m; đến điểm cố định = 5,45m.
Sau khi xảy ra tai nạn giao thông Sùng Seo N và Phàn Thị H1 đã đưa Thào Thị S đi cấp cứu nên Đội Cảnh sát giao thông - Trật tự - Cơ động Công an huyện B không thể tiến hành đo nồng độ cồn và xét nghiệm chất ma túy đối với Sùng Seo N và Phàn Thị H1 được.
Ngày 05/06/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B ban hành Quyết định số 46 trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh H giám định nguyên nhân chết của Thào Thị S.
Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 19/KLGĐTT-TTPY ngày 10/7/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh H, Kết luận: Nguyên nhân chết đối với tử thi Thào Thị S, sinh năm 1980: Chấn thương sọ não nặng; Dập não diện rộng, phù não toàn bộ, tụ máu dưới màng cứng số lượng nhiều, vỡ xương thái dương phải.
Ngày 05/6/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện B ra Quyết định trưng cầu giám định số: 129/QĐ-CQCSĐT, T giám định Nồng độ cồn và các chất ma túy đối với mẫu máu của tử thi Thào Thị S. Ngày 13/6/2023 V ra bản kết luận giám định độc chất số: 341/455-456/23/KLGĐĐC-PYQG, Kết luận: Trong mẫu máu của tử thi Thào Thị S, sinh năm 1980 do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Hà Giang gửi tới giám định: Không tìm thấy cồn và các chất ma túy.
Ngày 27/7/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện B ra Quyết định trưng cầu giám định số: 176/QĐ-CQCSĐT, Trưng cầu Phòng K Công an tỉnh H, giám định tài liệu đối với: 01 (Một) Giấy phép lái xe số: 110X001430, Hạng: A1, Họ tên: Sùng Seo N, sinh năm 1984, nơi cư trú: Xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên, do Sở giao thông vận tải tỉnh Đ cấp ngày 24/11/2015 không có thời hạn (Ký hiệu A1) là thật hay giả. Tại bản kết luận giám định số: 252/KL- KTHS ngày 01/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh H, Kết luận: Giấy phép lái xe gửi giám định ký hiệu A1 là giấy phép lái xe thật.
Ngày 20/9/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện B, tỉnh Hà Giang tiến hành yêu cầu định giá tài sản số: 39, đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng huyện B xác định giá trị thiệt hại những tài sản hư hỏng của xe mô tô biển kiểm soát: 27L1-Y.95 và xe mô tô biển kiểm soát: 23H6-N6. Ngày 28/9/2023 Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng huyện B kết luận số: 40/KL-HDĐGTS. Đối với xe mô tô biển kiểm soát: 27L1-Y.95 bị hư hỏng có giá trị thiệt hại là 1.534.000đ (Một triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn đồng). Đối với xe mô tô biển kiểm soát: 23H6-N6 có giá trị thiệt hại là 2.126.000đ (Hai triệu một trăm hai mươi sáu nghìn đồng).
Căn cứ vào các dấu vết để lại trên hiện trường Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B xác định lỗi do Sùng Seo N điều khiển xe mô tô BKS 27L1- Y.95 không đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng làn đường, phần đường quy định là nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn giao thông. Hậu quả khiến bà Thào Thị S ngồi phía sau xe mô tô bị ngã đập đầu xuống đường bị thương tích chấn thương sọ não sau đó tử vong. Hành vi của Sùng Seo N đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ năm 2008.
Với hành vi trên, tại Cáo trạng số 72/CT-VKSBQ ngày 23/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Sùng Seo N về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Sau khi xem xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 04 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm 04 tháng đến 02 năm 08 tháng. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự. Bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Ngày 16/8/2023, bà Phàn Thị H1 là người điều khiển xe mô tô BKS: 23H6-N6 đã tự nguyện bồi thường tổn thất về tính mạng, tinh thần, tiền mai táng cho gia đình và nạn nhân Thào Thị S với tổng số tiền 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng). Gia đình bà Thào Thị S đã nhận đủ số tiền bồi thường trên và không yêu cầu bà Phàn Thị H1 hỗ trợ thêm bất cứ khoản tiền nào khác. Đại điện theo pháp luật của bị hại Thào Thị S không yêu cầu Sùng Seo N phải bồi thường khoản tiền nào; bà Phàn Thị H1 không yêu cầu Sùng Seo N phải bồi thiệt hại về phần xe mô tô bị thiệt hại, nên không đề cập giải quyết.
Về phần thiệt hại của xe mô tô BKS 23H6-N6 xác định là của ông Phàn Phụ H2, sinh năm 1969 trú tại thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang (là chồng của bà Phàn Thị H1), quá trình điều tra, xác định xe mô tô bị hư hỏng nhẹ, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường dân sự, nên không đề cập giải quyết.
Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B tạm giữ các đồ vật, tài liệu gồm: 01 Chứng nhận đăng ký mô tô, xe gắn máy số: 27 002023, Tên chủ xe: Sùng Seo N, sinh năn 1984, địa chỉ: N, N, N, Điện Biên, do Công an huyện N, tỉnh Điện Biên, cấp ngày 16/3/2023; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện số 0141389, Tên chủ xe: Sùng Seo N, địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên, do Tổng Công ty Cổ phần B, cấp ngày 12/4/2023 có giá trị đến ngày 12/4/2024; 01 Giấy phép lái xe số: 110X001430, Hạng: A1, Họ tên: Sùng Seo N, sinh năm 1984, nơi cư trú: Xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên, do Sở giao thông vận tải tỉnh Đ cấp ngày 24/11/2015 không thời hạn;
01 Xe mô tô BKS: 27L1-Y.95, nhãn hiệu HONDA, số loại WARE RSX F1, màu sơn xanh, đen, số khung: RLHJA38,54PY205013; số máy JA52E0530013, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng kỹ thuật của xe; 01 Xe mô tô BKS:23H6-N6, nhãn hiệu HONDA, số loại WARE ALPHA, màu sơn xanh, đen, số khung: RLHHC09067Y142121, số máy: HC09E-5242261, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng kỹ thuật của xe; 01 Đăng ký xe mô tô, xe máy số: 002475, tên chủ xe Phàn Phụ H2, sinh năm 1969, Địa chỉ thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang, do Công an huyện B, tỉnh Hà Giang cấp ngày 17/8/2010;
01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện số 0387278, tên chủ xe Phàn Phụ H2, địa chỉ thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang, do công ty B1 - T, cấp ngày 06/5/2023 có giá trị đến ngày 06/5/2024.
Trong quá trình điều tra xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình xử lý vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 31 trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp.
Người bào chữa cho bị cáo Sùng Seo N cũng đã thừa nhận và khẳng định bị cáo quá trình điều khiển xe mô tô BKS27L1-Y.95 chở phía sau vợ là Thào Thị S đi theo hướng Q - B, khi đến km 03+800 thuộc địa phận thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang phát hiện phía trước cùng chiều có xe mô tô BKS 23H6- N6 do bà Phàn Thị H1 điều khiển có tín hiệu sang đường và thực hiện sang đường (từ phải qua trái) vào đường đi đội 2 thôn T, huyện B, tỉnh Hà Giang. Để tránh xe N đã điều khiển xe mô tô đi về phía bên trái, lúc này xe do bà H1 điều khiển đã sang phần đường bên trái nhưng do khoảng cách quá gần phần đầu xe mô tô của N va chạm vào sườn bên trái xe mô tô do bà Phàn Thị H1 điều khiển gây tại nạn. Hậu quả Sùng Seo N và Phàn Thị H1 bị xây xát, chấn thương phần mềm, Thào Thị S đập đầu xuống đường nhựa chấn thương sọ não, đến ngày 05/6/2023 Thào Thị S tử vong tại bệnh viện đa khoa tỉnh H và xe mô tô BKS 23H- N6 bị thiệt hại 2.126.000đ (Hai triệu một trăm hai mươi sáu nghìn đồng). Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nên bị truy tố để đưa ra xét xử là đúng, nhằm răn đe, giáo dục kịp thời bị cáo để bị cáo lấy đó làm bài học trở thành người công dân tốt. Quá trình giải quyết vụ án, đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo hiểu biết pháp luật còn hạn chế, vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức án từ 01 năm đến 01 năm 02 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Về phần dân sự, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu nên không đề nghị.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Sùng Seo N thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên và lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện B trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng nhưng có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ vào Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.
[3] Căn cứ định tội, định khung hình phạt: Lời khai nhận tội của bị cáo Sùng Seo N tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và người đại diện hợp pháp của bị hại, phù hợp với các tài liệu chứng cứ như: tài liệu khám nghiệm hiện trường (BL số 01 đến BL số 12), tài liệu khám nghiệm tử thi (BL số 62 đến BL 70), các kết luận giám định (bút 66-67;73;124;) biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông (bút lục 22-35); Kết luận định giá tài sản (BL số 118-119) và các tài liệu khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 03/6/2023 S N điều khiển xe mô tô BKS27L1-Y.95 chở phía sau là Thào Thị S (vợ bị cáo) đi theo hướng Q - B, khi đến km 03+800 thuộc địa phận thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang phát hiện phía trước cùng chiều có xe mô tô BKS 23H6-N6 do bà Phàn Thị H1 điều khiển có tín hiệu sang đường và thực hiện sang đường (từ phải qua trái) vào đường đi đội 2 thôn T, huyện B, tỉnh Hà Giang. Để tránh xe N đã điều khiển xe mô tô đi về phía bên trái, lúc này xe do bà H1 điều khiển đã sang phần đường bên trái nhưng do khoảng cách quá gần phần đầu xe mô tô của N va chạm vào sườn bên trái xe mô tô do bà Phàn Thị H1 điều khiển gây tại nạn, hành vi Sùng Seo N điều khiển xe mô tô BKS 27L1- Y.95 không đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng làn đường, phần đường quy định là nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn giao thông. Hậu quả Sùng Seo N và Phàn Thị H1 bị xây xát, chấn thương phần mềm, Thào Thị S đập đầu xuống đường nhựa chấn thương sọ não, đến ngày 05/6/2023 Thào Thị S tử vong tại bệnh viện đa khoa tỉnh H và xe mô tô BKS 23H-N6 bị thiệt hại 2.126.000đ (Hai triệu một trăm hai mươi sáu nghìn đồng).
[4] Hành vi điều khiển xe mô tô do không đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng làn đường, phần đường quy định của Sùng Seo N đã vi phạm các quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ năm 2008, cụ thể:
[5] Khoản 1 Điều 9. Quy tắc chung, Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định:
“1. Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”.
[6] Hành vi của bị cáo Sùng S1 N phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định như sau:
[7] Điều 260 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:a) Làm chết người..."
[8] Do vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo Sùng Seo N về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[9] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm tới trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, tài sản của người khác là khách thể được P1 bảo vệ, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, buộc bị cáo phải nhận thức được khi tham gia giao thông phải chấp hành các quy định về an toàn giao thông đường bộ. Trong quá trình điều khiển xe ô tô biển kiểm soát BKS 27L1-Y.95 tham gia giao thông đường bộ, do không đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng làn đường, phần đường quy định, hậu quả làm 01 người chết và gây thiệt hại về tài sản (thiệt hại về tài sản không lớn). Do đó, cần xử lý bị cáo với mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra nhằm giáo dục đối với bị cáo nói riêng và để phòng ngừa chung.
[10] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:
[11] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[12] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là lao động chính trong gia đình, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[13] Xét thấy bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo văn hoá thấp, vợ bị cáo đã chết, bị cáo có 05 con, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo thuộc hộ nghèo, ngoài lần phạm tội này ra bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Sau khi xem xét tính chất mức độ phạm tội các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng đối với bị cáo trong vụ án là phù hợp, đồng thời trong thời gian tại ngoại bị cáo không có hành vi bỏ trốn hay có vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo. Vì vậy, không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng các quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta.
[14] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 16/8/2023, bà Phàn Thị H1 là người điều khiển xe mô tô BKS: 23H6-N6 đã tự nguyện bồi thường tổn thất về tính mạng, tinh thần, tiền mai táng cho gia đình và nạn nhân Thào Thị S với tổng số tiền 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng). Gia đình bà Thào Thị S đã nhận đủ số tiền bồi thường trên và không yêu cầu bà Phàn Thị H1 hỗ trợ thêm bất cứ khoản tiền nào khác. Đại điện theo pháp luật của bị hại Thào Thị S không yêu cầu Sùng Seo N phải bồi thường khoản tiền nào, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[15] Về phần thiệt hại của xe mô tô BKS 23H6-N6, chủ xe không yêu cầu Sùng Seo N phải bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[16] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B tạm giữ các đồ vật gồm: 01 Chứng nhận đăng ký mô tô, xe gắn máy số: 27 002023, Tên chủ xe: Sùng Seo N, sinh năn 1984, địa chỉ: N, N, N, Điện Biên, do Công an huyện N, tỉnh Điện Biên, cấp ngày 16/3/2023; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện số 0141389, Tên chủ xe: Sùng Seo N, địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên, do Tổng Công ty Cổ phần B, cấp ngày 12/4/2023 có giá trị đến ngày 12/4/2024; 01 Giấy phép lái xe số: 110X001430, Hạng: A1, Họ tên: Sùng Seo N, sinh năm 1984, nơi cư trú: Xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên, do Sở giao thông vận tải tỉnh Đ cấp ngày 24/11/2015 không thời hạn; 01 Xe mô tô BKS: 27L1-Y.95, nhãn hiệu HONDA, số loại WARE RSX F1, màu sơn xanh, đen, số khung: RLHJA38,54PY205013; số máy JA52E0530013, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng kỹ thuật của xe; 01 Xe mô tô BKS:23H6-N6, nhãn hiệu HONDA, số loại WARE ALPHA, màu sơn xanh, đen, số khung: RLHHC09067Y142121, số máy: HC09E-5242261, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng kỹ thuật của xe; 01 Đăng ký xe mô tô, xe máy số: 002475, Tên chủ xe Phàn Phụ H2, sinh năm 1969, địa chỉ thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang, do Công an huyện B, tỉnh Hà Giang cấp ngày 17/8/2010;
01 Giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện số 0387278, tên chủ xe Phàn Phụ H2, địa chỉ thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang, do công ty B1 - T, cấp ngày 06/5/2023 có giá trị đến ngày 06/5/2024. Sau khi xác định chủ sở hữu hợp pháp. Quá trình điều tra xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình xử lý vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 31 trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp. Xét thấy, trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho các chủ sở hữu các đồ vật trên là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[17] Đối với Phàn Thị H1, khi tham gia giao thông đã chấp hành đúng với quy định của Luật giao thông đường bộ, tuy nhiên thời điểm xảy ra tai nạn bà H1 tham gia giao thông không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định đã vi phạm khoản 9 Điều 8 Luật giao thông đường bộ quy định. Công an huyện B xử phạt vi phạm hành chính theo quyết định số G01.803.819.308-981-23-001032/QĐ- XPHC ngày 02/11/2023 là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[18] Đối với Phàn Phụ H2, sinh năm 1969 trú tại thôn T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang (là chồng của bà Phàn Thị H1), là chủ của xe mô tô BKS 23H6- N6. Quá trình điều tra xác định ngày 03/06/2023 ông H2 không ở nhà và có để xe mô tô BKS 23H6-N6 và chìa khóa ở nhà, bà H1 đã tự ý lấy xe mô tô của ông H2 điều khiển đi dẫn đến tai nạn giao thông. Vì vậy, không có đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với Phàn Phụ H2 về hành vi Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ được quy định tại Điều 264 BLHS. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[19] Về án phí: Xét thấy bị cáo thuộc hộ nghèo, có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng Seo N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Sùng Seo N 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Sùng S1 N cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật thi hành án hình sự.
"Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo".
Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Về án phí: Bị cáo Sùng Seo N được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
"Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 01/2024/HS-ST
Số hiệu: | 01/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về