Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ (do chạy tốc độ cao) số 03/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 03/2024/HS-PT NGÀY 15/01/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 15 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 113/2023/TLPT-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Đinh Văn P do có kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2023/HS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước.

Bị cáo kháng cáo: Đinh Văn P, sinh năm 1988 tại tỉnh Kiên Giang; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ C, ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; con ông Đinh Văn S (đã chết) và bà Hồ Thị T, sinh năm 1964; bị cáo có 02 chị em ruột, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; có vợ là Thị D, sinh năm 1988; bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/02/2023 cho đến nay “bị cáo có mặt tại phiên tòa”.

Bị hại:

Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964 (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Tổ A, ấp S, xã P, huyện H, tỉnh Bình Phước, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ, ngày 16/10/2022 sau khi đã uống rượu, Đinh Văn P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93P2-X lưu thông trên đường nhựa liên ấp, theo hướng từ xã Q, thị xã C, tỉnh Bình Phước đi xã P, huyện H, tỉnh Bình Phước để đi về nhà tại ấp S, xã T, huyện H. Khi đi đến đoạn đường đang lên dốc thuộc tổ A, ấp S, xã P, P điều khiển xe lưu thông ở giữa đường. Cùng lúc này, ông Nguyễn Văn H một mình điều khiển xe gắn máy biển kiểm soát 93FA-X lưu thông cùng chiều với P đang đi sát mép đường bên phải phía trước. P điều khiển xe mô tô để vượt qua xe gắn máy do ông H điều khiển nhưng do chạy tốc độ cao và xử lý kém nên phần bánh xe bên phải của bánh xe trước và hệ thống giảm sóc phía trước, bên phải của xe mô tô do P đang điều khiển va chạm vào phần gác chân phía trước, bên trái của xe gắn máy do ông H điều khiển làm xe gắn máy và ông H bị trượt ngã xuống đường nhựa về phía trước. Sau khi xảy ra tai nạn giao thông, ông Nguyễn Văn H và Đinh Văn P bị thương nặng được đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng do thương tích quá nặng nên ông H đã tử vong trên đường đi cấp cứu.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 16/10/2022 xác định:

Nơi xảy ra tai nạn trên đường nhựa liên ấp thuộc tổ A, ấp S, xã P, huyện H, tỉnh Bình Phước là đoạn đường thẳng, dốc; mặt đường được trải bê tông nhựa bằng phẳng có chiều rộng là 06 mét, là đường 02 chiều, không có vạch kẻ đường để chia đường thành 02 phần đường xe chạy riêng biệt, tầm nhìn không bị che khuất, không có hệ thống biển báo hiệu giao thông. Tại hiện trường chỉ còn xe gắn máy biển kiểm soát 93FA-X và xe mô tô biển kiểm soát 93P2-X.

Lấy hướng từ xã Q, thị xã C đi xã P, huyện H là hướng chuẩn.

Lấy mép đường bê tông nhựa bên phải hướng chuẩn làm mép chuẩn.

Lấy trụ điện 10B bên mép đường trái theo hướng ấp C đi ấp S làm điểm mốc.

Lấy đơn vị đo là mét.

(1) Dấu vết dầu nhớt: Màu đen, nằm rơi vãi trên mặt đường bê tông nhựa ở phần giữa đường, có kích thước 0,2 x 0,5m, tâm dấu vết máu đo vào mép đường chuẩn là 2,9m.

(2) Dấu vết phanh: Màu đen, dạng đường thẳng, in trên bề mặt đường nhựa bên trái phần đường theo hướng chuẩn, chiều dài 4,7 mét. Điểm đầu vết phanh quay về hướng đi ấp C, xã Q, thị xã C, đo vào mép đường chuẩn là 3,4 mét. Đo vào tâm dấu vết (1) là 1,1m, điểm cuối quay về hướng đi ấp S, xã P, đo vào mép đường chuẩn là 3,7 mét.

(3) Dấu vết cà trượt: Màu xám, không hiện liên tục in trên mặt đường bê tông nhựa, nằm bên phải phần đường theo hướng chuẩn, chiều dài là 5,7 mét.

Điểm đầu quay về hướng đi ấp C, xã Q, đo vào mép đường chuẩn là 2,9 mét và đo vào tâm dấu vết (1) là 2m. Điểm cuối quay về hướng đi ấp S, xã P và nằm trùng với gác chân trước bên trái xe gắn máy (4), đo vào mép đường chuẩn là 1,6 mét.

(4) Xe gắn máy biển kiểm soát 93FA – X, sau tai nạn hệ thống máy ngưng hoạt động, nằm ngã nghiêng sang trái ở phần đường bên phải theo hướng chuẩn, đầu xe quay về hướng đi ấp C, tâm trục bánh xe trước đo vào mép chuẩn là 1,5 mét, tâm trục bánh sau đo vào mép chuẩn là 1,8m, đuôi xe quay về hướng đi ấp S, tâm trục bánh xe sau đo vào (6) là 0,9m, tâm trục bánh trước đo vào điểm mốc là 77,9m.

(5) Xe mô tô biển kiểm soát 93P2-X hệ thống máy ngưng hoạt động, nằm ngã nghiêng sang phải ở phần đường bên trái theo hướng chuẩn, đầu xe quay chếch về mép đường trái hướng đi ấp S, tâm trục bánh xe trước đo vào mép chuẩn là 4,8 mét, đuôi xe quay chếch về mép đường chuẩn hướng đi ấp C, tâm trục bánh xe đo vào mép chuẩn là 4,1 mét, đo vào tâm đầu trục bánh xe sau xe gắn máy (4) là 2,3m, đo vào điểm cuối dấu vết (2) là 3,6 mét, tâm trục bánh trước đo vào điểm mốc là 80m.

(6) Dấu vết máu màu đỏ, trạng thái lỏng, nằm ở bên phải phần đường theo hướng chuẩn, kích thước 0,6 x 0,4m, tâm vết máu đo vào mép đường chuẩn lá 1,6m và đo vào tâm trục bánh sau xe (4) là 0,9m.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 335/2022/GĐPY ngày 20/10/2022 kết luận dấu hiệu chính qua giám định đối với Nguyễn Văn H :

- Đa vết thương phần mềm.

- Vỡ xương sọ, gẫy đa xương sườn và 2 xương cẳng cân trái.

- Giập rách phổi phải.

Nguyên nhân chết của Nguyễn Văn H: Bị đa chấn thương gãy xương, vỡ xương sọ, giập rách phổi dẫn đến tử vong.

Căn cứ Bản kết luận giám định số 137/KL(E)-KTHS ngày 24 tháng 10 năm 2022 của Phòng K, Công an tỉnh B, kết luận:

Không tìm thấy thành phần cồn Ethanol và M trong máu tử thi Nguyễn Văn H.

Căn cứ biên bản kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở ngày 16/10/2022 đối với Đinh Văn P xác định: nồng độ cồn trong hơi thở của Đinh Văn P là: 0,326 mg/01 lít khí thở.

Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2023/HS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước, quyết định:

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Văn P phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đinh Văn P 03 (ba) năm tù. Thời gian tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về vấn đề dân sự:

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại. Buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho người đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại 38.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 09/8/2023, người đại diện hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.

Ngày 22/8/2023, bị cáo Đinh Văn P có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Đinh Văn P và người đại diện hợp pháp của bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên tòa phúc thẩm: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2023/HS- ST ngày 07 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước về phần hình phạt đối với bị cáo Đinh Văn P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Đinh Văn P và người đại diện hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị T1 được làm trong thời hạn luật định, có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đinh Văn P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã nêu cụ thể: Khoảng 16 giờ ngày 16/10/2022 P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93P2-X lưu thông trên đường nhựa liên ấp, theo hướng từ xã Q, thị xã C đi xã P, huyện H. Khi đi đến đoạn đường dốc thuộc tổ A, ấp S, xã P, huyện H, P điều khiển xe mô tô vượt xe gắn máy biển kiểm soát 93FA-X do ông H điều khiển lưu thông phía trước, cùng chiều do không làm chủ được tốc độ nên phần đầu xe bên phải của xe mô tô do P điều khiển va chạm vào phần bên hông trái của xe gắn máy do ông H điều khiển dẫn đến tai nạn giao thông, hậu quả làm ông H chết trên đường đi cấp cứu. P điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe, điều khiển xe mô tô vượt xe ở đoạn đường dốc, không có báo hiệu xin vượt bằng còi, xe chạy phía trước chưa tránh về bên phải, điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Hành vi của P đã vi phạm quy định tại khoản 9, Điều 8; khoản 1, khoản 2, điểm a, c khoản 5 Điều 14 Luật giao thông đường bộ 2008; khoản 01 Điều 35 Luật phòng chống tác hại của rượu bia năm 2019. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo của bị cáo P và của người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị T1, thấy rằng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả cho gia đình người bị hại với số tiền 12.000.000 đồng, bị cáo cũng bị thương tích nặng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thuộc hộ nghèo (có giấy chứng nhận của chính quyền địa phương), sau khi gây tại nạn bị cáo cũng bị tổn thương ổ của não (dập não xuất huyết thái dương phải, máu tụ màng cứng bán cầu phải), vẫn phải tiếp tục điều trị thương tích. Thực tế, tại phiên tòa phúc thẩm thấy sức khỏe của bị cáo cũng không đảm bảo. Hơn nữa, người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại cũng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo được tiếp tục điều trị thương tích. Mặt khác, xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo mà không cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội. Đối chiếu với các quy định của pháp luật thì bị cáo đủ điều kiện để được hưởng án treo. Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời ấn định thời gian thử thách cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Mặc dù, sau khi xét xử sơ thẩm không có ai kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự nhưng trong quá trình xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa bà T1 và bị cáo đều thống nhất trình bày sau khi xét xử sơ thẩm đến nay gia đình bị cáo đã bồi thường thêm cho bà T1 được số tiền 8.000.000 đồng. Như vậy, bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 30.000.000 đồng. Bà T1 và bị cáo thống nhất bị cáo có trách nhiệm bồi thường số tiền này theo phương thức:

+ Từ ngày 15/01/2024 đến ngày 25/01/2024 bị cáo phải giao cho bà T1 số tiền 10.000.000 đồng;

+ Trong thời gian từ ngày 26/01/2024 cho đến ngày 26/5/2024 (04 tháng) bị cáo có trách nhiệm giao cho bà T1 mỗi tháng 5.000.000 đồng Xét thấy, việc các bên thỏa thuận phương thức bồi thường như vậy là tự nguyện, phù hợp pháp luật nên cần ghi nhận.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đinh Văn P phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đinh Văn P và một phần kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị Thúy Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2023/HS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước về phần hình phạt đối với bị cáo Đinh Văn P và phần trách nhiệm dân sự.

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Văn P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38, Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 2, Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thầm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn P 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Đinh Văn P cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo; trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

3. Về trách nhiệm dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Đinh Văn P đã bồi thường cho người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị T1 số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng và ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo Đinh Văn P và bà Nguyễn Thị T1 về việc bồi thường số tiền còn lại là 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng. Với phương thức như sau:

+ Từ ngày 15/01/2024 đến ngày 25/01/2024 bị cáo Đinh Văn P phải giao cho bà Nguyễn Thị T1 số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng;

+ Từ ngày 26/01/2024 cho đến ngày 26/5/2024 (04 tháng) bị cáo Đinh Văn P có trách nhiệm giao cho bà Nguyễn Thị T1 mỗi tháng 5.000.000 (Năm triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015”.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đinh Văn P không phải chịu.

5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ (do chạy tốc độ cao) số 03/2024/HS-PT

Số hiệu:03/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về