Bản án về tội vi phạm quy định nhập cảnh số 59/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 59/2022/HS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH NHẬP CẢNH

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Pà Chịa Sùng Nhia S (tên gọi khác: Không), sinh ngày 06/8/1999, tại huyện K, tỉnh Bo Ly Khăm Xay, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Nơi cư trú: Bản N, huyện K, tỉnh Bo Ly Khăm Xay, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; nghề nghiệp: Nông dân; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Lào; con ông Đớ Sùng Nhia S, sinh năm 1979 và bà Dia V, sinh năm 1980; bị cáo chung sống như vợ chồng với Cháng A L, sinh năm 1979 và có 01 người con, sinh năm 2021; tiền án: Không, tiền sự: 01 tiền sự (Ngày 03/01/2022 bị Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Điện Biên xử phạt Pà Chịa Sùng Nhia S về hành vi “Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 17 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, mức phạt tiền 3.000.000 đồng, Pà Chịa Sùng Nhia S nộp phạt xong ngày 04/01/2022).

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/02/2022 tại trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người phiên dịch tiếng Lào: Ông Lô Quang T, sinh năm 1956. Địa chỉ: Số nhà X, tổ dân phố Y, phường M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 03/01/2022, Pà Chịa Sùng Nhia S đã bị Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Điện Biên xử phạt vi phạm hành chính về hành vi qua lại biên giới mà không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định. Ngày 29/01/2022, tại khu vực xã S, huyện N, tỉnh Điện Biên, Pà Chịa Sùng Nhia S tiếp tục nhập cảnh trái phép vào Việt Nam và ở tại nhà của Cháng A L. Đến ngày 03/02/2022, Pà Chịa Sùng Nhia S thấy Công an đến nhà L khám xét vì L liên quan đến ma túy, đồng thời triệu tập Pà Chịa Sùng Nhia S làm việc. Ngày 12/02/2022 Pà Chịa Sùng Nhia S bị khởi tố, bắt tạm giam về hành vi Vi phạm quy định về nhập cảnh.

Tại Bản Kết luận giám định số 272/KL-PC09 ngày 11/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Chữ viết tiếng Lào trên các tài liệu cần giám định, ký hiệu từ A1 đến A5 với chữ viết tiếng Lào trên các tài liệu mẫu so sánh, ký hiệu từ M1 đến M4 là do cùng một người viết ra.

Tại Bản Cáo trạng số 34/CT-VKS-P1 ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S về tội “Vi phạm quy định về nhập cảnh” theo quy định tại Điều 347 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên bố bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S phạm tội “Vi phạm quy định về nhập cảnh”.

- Áp dụng Điều 347; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S mức án từ 4 (Bốn) tháng 5 (Năm) ngày tù đến 6 (Sáu) tháng tù.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S phải chịu 200.000 đồng (VNĐ) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không tranh luận gì đối với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm đã phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với các bản hỏi cung, biên bản ghi lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản làm việc do Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Điện Biên lập hồi 15 giờ 45 phút ngày 04/02/2022 và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng của vụ án, bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S đã khai rằng:

Khoảng năm 2017, Pà Chịa Sùng Nhia S, sinh năm 1999, cư trú tại bản N, huyện K, tỉnh Bo Ly Khăm Xay, nước CHDCND Lào có quen biết với Cháng A L, sinh năm 1979 cư trú tại bản P, huyện N, tỉnh Điện Biên đang làm thuê tại đây. Đến đầu năm 2019, Pà Chịa Sùng Nhia S và L cùng nhau đến khu vực biên giới thuộc bản P, huyện M, tỉnh Phông-Sa-Lỳ, nước CHDCND Lào rồi đi theo đường rừng sang khu vực xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên nhập cảnh vào Việt Nam mà không làm thủ tục nhập cảnh, rồi cùng nhau đón taxi về nhà L ở bản P, xã N, tỉnh Điện Biên. Khi về nhà L có đến xã P để làm thủ tục đăng ký tạm trú nhưng Pà Chịa Sùng Nhia S không có giấy tờ gì nên không làm được. Trong thời gian chung sống ở Việt Nam, Pà Chịa Sùng Nhia S và L có với nhau 01 người con gái, sinh vào tháng 3/2021. Do không làm được giấy khai sinh cho con nên ngày 03/01/2022 L đưa Pà Chịa Sùng Nhia S đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Điện Biên làm thủ tục cho Pà Chịa Sùng Nhia S trở về Lào làm thủ tục giấy tờ và cắt khẩu sang Việt Nam, vì không có giấy tờ gì nên Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Điện Biên đã xử phạt vi phạm hành chính bằng hình phạt tiền đối với Pà Chịa Sùng Nhia S về hành vi qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục nhập cảnh với số tiền là 03 triệu đồng. Ngày 12/01/2022, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Điện Biên giao Pà Chịa Sùng Nhia S cho Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Tây Trang trao trả cho cơ quan chức năng của Lào. Sau khi làm xong thủ tục giấy tờ, ngày 25/01/2022 Pà Chịa Sùng Nhia S lại quay lại Việt Nam theo đường cửa khẩu quốc tế Tây Trang, khi đến đây cơ quan chức năng của hai nước không cho thông quan vì đang có dịch bệnh, Pà Chịa Sùng Nhia S gọi điện nhờ L tìm người đưa sang Việt Nam và L có gửi số điện thoại cho người tên là V ở huyện M, tỉnh Phông-Sa-Lỳ và dặn Pà Chịa Sùng Nhia S tự liên lạc với người này đưa về Việt Nam. Pà Chịa Sùng Nhia S quay về trung tâm huyện M, tỉnh Phông-Sa-Lỳ, Lào thuê nghỉ trọ. Ngày 26/01/2022, Pà Chịa Sùng Nhia S liên lạc nhờ V đưa sang Việt Nam. V hẹn khi nào đi được V thông báo sau. Đến trưa ngày 28/01/2022, Pà Chịa Sùng Nhia S được V và em trai V đưa theo đường rừng về Việt Nam đến chiều tối ngày 29/01/2022 về đến khu vực biên giới Việt Nam thuộc khu vực S, huyện N, tỉnh Điện Biên thì Pà Chịa Sùng Nhia S gặp L rồi cùng nhau tiếp tục đi theo đường rừng về nhà L mà không làm thủ tục gì. Đến ngày 03/02/2022, Pà Chịa Sùng Nhia S thấy Công an đến nhà L khám xét vì L liên quan đến ma túy, đồng thời triệu tập Pà Chịa Sùng Nhia S làm việc. Ngày 12/02/2022 Pà Chịa Sùng Nhia S bị khởi tố, bắt tạm giam về hành vi Vi phạm quy định về nhập cảnh.

Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về nhập cảnh” quy định tại Điều 347 Bộ luật Hình sự, bởi vậy bị cáo phải chịu hình phạt do pháp luật quy định.

[2] Xét về tính chất của vụ án thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất cảnh, nhập cảnh của Nhà nước. Pà Chịa Sùng Nhia S đã vượt qua biên giới Lào để sang Việt Nam mà không có các giấy tờ theo quy định của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như hộ chiếu, visa, đã bị xử phạt hành chính nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi vượt qua biên giới quốc gia giữa Việt Nam – Lào trái phép. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội tại khu bực biên giới Việt Nam – Lào tại tỉnh Điện Biên, do đó Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố và kết luận bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về nhập cảnh” quy định tại Điều 347 Bộ luật Hình sự, là đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về hình phạt đối với bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi phạm tội và bị bắt, bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, có thể thả tự do ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về tội danh nào khác là cần thiết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S phạm tội “Vi phạm quy định về nhập cảnh”. Áp dụng Điều 347; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S mức án từ 4 tháng 5 ngày tù đến 6 tháng tù, buộc bị cáo Pà Chịa Sùng Nhìa S phải chịu 200.000 đồng (VNĐ) tiền án phí hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử thấy rằng việc đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S phải chịu 200.000 đồng (VNĐ) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về các vấn đề khác:

Cháng A L không không có mục đích vụ lợi nên không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với L về tội tổ chức cho người khác xuất, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép. Hiện, Cháng A L đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên khởi tố, tạm giam ở một vụ án khác.

Pà Chịa Sùng Nhia S khai chỉ biết hai người đưa Pà Chịa Sùng Nhia S nhập cảnh trái phép vào Việt Nam tên là V và em trai V, còn tên tuổi địa chỉ cụ thể của những người này ở đâu thì Pà Chịa Sùng Nhia S không biết, nên không có đủ cơ sở để điều tra làm rõ.

Khi Cháng A L đưa Pà Chịa Sùng Nhia S về nhà thì bố đẻ Cháng A L là ông Cháng A D biết Pà Chịa Sùng Nhia S đã vi phạm quy định về nhập cảnh. Do Pà Chịa Sùng Nhia S phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên ông Cháng A D không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm quy định tại Điều 389 Bộ luật Hình sự và tội Không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 Bộ luật Hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 347 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S phạm tội “Vi phạm quy định về nhập cảnh”.

2. Về hình phạt: Áp dụng Điều 347; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S 04 (Bốn) tháng 05 (Năm) ngày tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S tính từ ngày 12/02/2022 đến ngày 16/6/2022.

Áp dụng Khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố trả tự do cho bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về tội danh nào khác.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Pà Chịa Sùng Nhia S phải chịu 200.000 đồng (VNĐ) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 16/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định nhập cảnh số 59/2022/HS-ST

Số hiệu:59/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về