Bản án về tội vi phạm quy định nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (khai thác cát) số 564/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 564/2022/HS-PT NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH NGHIÊN CỨU, THĂM DÒ, KHAI THÁC

Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 436/2022/TLPT-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 296/2021/HS-ST ngày 13/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1981; ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn TT, xã CT, huyện V, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 01/12; Con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà PH Thị H; Vợ là Lê Thị T và có 4 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án: Không; Tiền sự: bị UBND thành phố Hà Nội ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 4026/QĐ-XPVPHC ngày 26/07/2019 về hành vi “Khai thác cát trong phạm vi hành lang bảo vệ luồng mà không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tài nguyên” (Chưa hết thời hiệu); Bị cáo tại ngoại (bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú), có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 30/04/2020, tại khu vực đoạn sông Hồng thuộc địa phận xã Minh Châu, huyện V, TP Hà Nội, tổ tuần tra Công an huyện V kiểm tra, phát hiện tàu sông số hiệu VR16044730 đang khai thác cát trái phép. Tại thời điểm kiểm tra, trên tàu có Nguyễn Văn H (sinh năm: 1981; trú tại: Thôn TT, xã CT, huyện V, TP Hà Nội); Hà Văn L (sinh năm: 1969; trú tại: Thôn TT, xã CT, huyện V, TP Hà Nội) và Phan Chí T (sinh năm: 1993; trú tại: Thôn Phú Xuyên 4, xã Phú Châu, huyện V, TP Hà Nội). Tổ tuần tra đã tiến hành lập biên bản vi phạm, đo đạc khối lượng cát trên tàu, xác định tổng khối lượng là 46,7 m3. Tại thời điểm kiểm tra, Nguyễn Văn H, Hà Văn L, Phan Chí T không xuất trình được giấy tờ về phương tiện, giấy phép liên quan đến hoạt động khai thác cát, tổ tuần tra đã yêu cầu các đối tượng đưa phương tiện tàu sông trên vào bờ để làm việc. Để đảm bảo an toàn cho phương tiện trong quá trình tạm giữ, tổ công tác đã tiến hành hạ tải một phần khối lượng cát trong khoang chứa của tàu. Sau khi hạ tải, khối lượng cát còn trong khoang chứa là 21,9m3.

Quá trình điều tra xác định: Ngày 23/03/2020, Trần Văn G, sinh năm: 1974; trú tại: Thôn Bài Nha, xã CT, huyện V, TP Hà Nội mua của Công ty cổ phần Đ, trụ sở tại: số 2757, tổ 15, khu 6, phường Vân Cơ, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, 01 (một) tàu sông số hiệu VR16044730, với giá 1.200.000.000 đồng. Sau khi mua được tàu sông trên, G thuê Hà Văn L (là cháu của G) quản lý và sử dụng tàu sông để vận chuyển thuê hàng hóa và khai thác cát tại mỏ khai thác của Công ty cổ phần Quảng Tây, địa chỉ tại: Thị trấn Tây Đằng, huyện V, TP Hà Nội.

Ngày 29/04/2020, L thuê Nguyễn Văn H (người cùng làng) và Phan Chí T (là cháu của H) phụ giúp L vận hành hệ thống khai thác cát trên tàu sông số hiệu VR16044730 với tiền công là 300.000đồng/chuyến. Lphân công H có trách nhiệm kiểm tra, sửa chữa hệ thống hút cát, hệ thống máy của tàu sông và cùng với T phụ giúp L trong quá trình vận hành hệ thống hút cát. Ban đầu, các đối tượng thống nhất sẽ đến mỏ của Công ty Quảng Tây để mua vé khai thác cát.

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 29/04/2020, Hà Văn L trực tiếp điều khiển tàu sông số hiệu VR16044730, cùng đi trên tàu có H, T, di chuyển từ khu vực cảng Hồng Hà thuộc thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội đến mỏ được cấp phép của Công ty cổ phần Quảng Tây tại thị trấn Tây Đằng, huyện V, TP Hà Nội, định chờ đến sáng để mua phiếu hoạt động khai thác cát trong địa phận mỏ. Khi đi trên sông Hồng thuộc địa phận xã Minh Châu, huyện V, TP Hà Nội, H, L, T đều nhìn thấy có 02 phương tiện tàu sông đang hoạt động khai thác cát (không biết thông tin về số đăng ký, đăng kiểm và tên chủ sử dụng 02 phương tiện tàu sông này). Thấy vậy, L điều khiển tàu sông số hiệu VR16044730 đến gần khu vực 02 phương tiện tàu sông trên và chỉ đạo T tiến hành thả neo cố định tàu, bật máy bơm hút nước từ khoang chứa của tàu ra ngoài. Sau đó, L khởi động đầu nổ, điều khiển hệ thống sen vòi, ống hút và trõ hút đưa xuống lòng sông Hồng để bắt đầu hoạt động hút cát từ lòng sông đưa lên khoang chứa của tàu sông. H đứng tại vị trí gần khoang chứa thứ nhất cạnh ca bin tàu để quan sát L và T khai thác cát. Nếu trong quá trình vận hành hệ thống hoạt động khai thác cát có vướng mắc, máy móc bị hư hỏng hoặc không hoạt động, H sẽ là người trực tiếp sửa chữa và khi cần thiết, H sẽ hỗ trợ L, T trong hoạt động khai thác cát đưa lên khoang chứa của tàu được nhanh hơn. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 30/04/2020, khi các đối tượng đang khai thác cát trái phép thì phát hiện có tàu lạ đến gần, H đã điều khiển tàu sông số hiệu VR16044730 di chuyển được khoảng 50m thì bị tổ tuần tra Công an huyện V ra hiệu lệnh dừng tàu để kiểm tra.

Ngày 26/05/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện V đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 147 trưng cầu Trung tâm phân tích thí nghiệm địa chất giám định mẫu vật nghi là khoáng sản (cát đen) thu giữ trên tàu sông số hiệu VR16044730. Tại Giấy chứng nhận kết quả thử nghiệm số 09/KV05-2020 ngày 27/05/2020 của Trung tâm phân tích thí nghiệm địa chất xác định mẫu phân tích là mẫu cát (cát đen); Có hàm lượng SiO2 từ 76-78%.

Ngày 06/06/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành định vị vị trí các đối tượng đã hoạt động khai thác cát vào hồi 00 giờ 30 phút ngày 30/04/2020. Kết quả xác định tọa độ các đối tượng hoạt động khai thác cát là: X= 2343863 Bắc, Y= 547614 Đông (Hệ tọa độ VN2000).

Tại Bản kết luận định giá số 50/2019/KL-ĐGTS ngày 16/06/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V, TP Hà Nội kết luận: 46,7m3 cát đen có tổng giá trị là 1.868.000 đồng.

Ngày 23/06/2020, Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hà Nội có công văn số 5179/STNMT-KS cung cấp: Vị trí tọa độ X=2343863 Bắc, Y=547614 Đông (Hệ tọa độ VN2000) thuộc địa giới hành chính xã Minh Châu, huyện V, TP Hà Nội. Vị trí trên không có đơn vị nào được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp phép khai thác khoáng sản hay xác nhận đăng ký khối lượng thu hồi cát từ dự án nạo vét luồng đường thủy nội địa.

Ngày 28/07/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, TP Hà Nội đã xác minh tại Trạm quản lý đường sông Sơn Tây, TP Hà Nội xác định: Vị trí phương tiện tàu sông số hiệu VR16044730 hoạt động khai thác cát trái phép ngày 30/04/2020 có tọa độ X=2343863 Bắc, Y=547614 Đông (Hệ tọa độ VN2000) là ngoài phạm vi hành lang bảo vệ luồng giao thông đường thủy nội địa.

Tại cơ quan điều tra, Hà Văn L, Nguyễn Văn H và Phan Chí T nhận thức được hành vi khai thác cát tại lòng sông Hồng thuộc địa phận xã Minh Châu, huyện V, TP Hà Nội là trái phép vì L, H, T biết khu vực này không có mỏ được cấp phép và nếu các mỏ được cấp phép thì chỉ được hoạt động vào ban ngày.

Cơ quan điều tra đã xác minh tại Công ty CP Đ về việc bán tàu sông số hiệu VR16044730 cho Trần Văn G. Ông Tạ Huy Bình (sinh năm: 1984; trú tại: số nhà 15, tổ dân phố Đông Hưng, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc) là đại diện ủy quyền của công ty cung cấp: Công ty CP Đ đăng ký và sử dụng phương tiện tàu sông số hiệu VR16044730 để kinh doanh vận chuyển hàng hóa từ tháng 06/2017. Khoảng tháng 03/2020, do không có nhu cầu sử dụng, Công ty CP Đ đã ủy quyền cho ông Bình bán tàu sông trên cho Trần Văn G với giá 1.200.000.000 đồng. Khi bán, ông Bình nhận tiền mặt và giao toàn bộ giấy tờ đăng ký, đăng kiểm cùng phương tiện tàu sông trên cho bên mua Trần Văn G, không lập giấy tờ mua bán, không làm thủ tục sang tên do bên mua không yêu cầu. Hiện tàu sông số hiệu VR16044730 thuộc quyền sở hữu của Trần Văn G.

Đối với Nguyễn Văn H, ngày 26/07/2019 đã bị UBND TP Hà Nội ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 4026/QĐ-XPVPHC về hành vi “Khai thác cát trong phạm vi hành lang bảo vệ luồng mà không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tài nguyên” quy định tại Điểm b, Khoản 9, Điều 5, Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/12/2015 của Chính phủ bằng hình thức phạt tiền, mức tiền phạt là 47.500.000 đồng. Ngày 06/8/2019, Nguyễn Văn H đã chấp hành nộp phạt số tiền 47.500.000 đồng. Tại thời điểm ngày 30/4/2020, tiền sự trên đang còn thời hiệu. Do đó, hành vi của Nguyễn Văn H đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự.

Đối với Hà Văn L, Phan Chí T, về nhân thân: chưa có tiền án, tiền sự. Ngày 30/10/2020, UBND huyện V, TP Hà Nội đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 6530/QĐ-XPVPHC đối với Hà Văn L về các hành vi vi phạm: “Khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, không sử dụng vật liệu nổ công nghiệp mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 44 Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/04/2017 của Chính phủ và “Thuyền viên làm việc trên phương tiện không có bằng hoặc giấy chứng nhận khả năng chuyên môn theo quy định”, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/12/2015 của Chính phủ. Tổng số tiền phải nộp phạt là 38.500.000 đồng.

Ngày 30/10/2020, UBND huyện V, TP Hà Nội đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 6529 /QĐ-XPVPHC đối với Phan Chí T về hành vi vi phạm: “Khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, không sử dụng vật liệu nổ công nghiệp mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 44 Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/04/2017 của Chính phủ, mức phạt là 35.000.000 đồng.

Đối với Trần Văn G, là chủ sở hữu của tàu sông số hiệu VR 16044730, khi giao tàu sông trên cho Hà Văn L quản lý, sử dụng nhưng không biết L sử dụng để khai thác cát trái phép. Ngày 30/10/2020, UBND huyện V, TP Hà Nội đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 6531/QĐ-XPVPHC đối với Trần Văn G về hành vi vi phạm “Sử dụng giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện hút đã hết hiệu lực”, quy định điểm a Khoản 8 Điều 11 Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/12/2015 của Chính phủ, mức phạt là 1.500.000 đồng.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra đã thu giữ: 01 phương tiện tàu sông in số hiệu VR 16044730; 01 đầu nổ do nước ngoài sản xuất; 01 sên hút cát bằng gang đường kính 200mm; 01 đường ống hút bằng cao su màu đen đường kính 200mm, dài khoảng 10m; 01 trõ hút bằng sắt đường kính 200mm, dài khoảng 04m đã qua sử dụng; 21,9m3 cát đen.

Ngày 16/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện V đã trao trả cho Trần Văn G: 01 Phương tiện tàu sông in số hiệu VR 16044730; 01 đầu nổ do nước ngoài sản xuất; 01 sên hút cát bằng gang đường kính 200mm; 01 đường ống hút bằng cao su màu đen đường kính 200mm, dài khoảng 10m; 01 trõ hút bằng sắt đường kính 200mm, dài khoảng 04m đã qua sử dụng.

Đối với số cát đen có khối lượng 21,9m3, hiện đang lưu giữ tại bãi tập kết của công ty cổ phần Quảng Tây, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện V để bảo quản, chờ xử lý.

Tại Cáo trạng số 209/CT-VKS-P3 ngày 31/05/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên" theo điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 296/2021/HSST ngày 13/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Tuyên bố: Nguyễn Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên”.

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 227; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Nguyễn Văn H 08 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm mô tả và xác định Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức hình phạt 08 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” là đúng pháp luật nên chỉ đề nghị được giảm hình phạt và hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Nguyễn Văn H 08 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, có thêm tình tiết mới như bị cáo nộp án phí sơ thẩm, đóng góp cho quỹ phòng chống Covid 19 tại địa phương và được chính quyền địa phương xác nhận chấp hành tốt chính sách của nhà nước, tích cực đóng góp cho phong trào tại địa phương. Xét về nhân thân, thái độ ăn năn hối cải, điều kiện, hoàn cảnh gia đình của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người liên quan đến vụ án, kết luận giám định, vật chứng được thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở xác định: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 30/04/2020, tại khu vực lòng sông Hồng thuộc địa phận xã Minh Châu, huyện V, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn H cùng Hà Văn L, Phan Chí T bị tổ tuần tra Công an huyện V kiểm tra, phát hiện đang có hành vi sử dụng tàu sông số hiệu VR16044730 để khai thác trái phép 46,7 m3 cát đen, trị giá 1.868.000 đồng.

Trước khi thực thực hiện hành vi trên thì ngày 26/07/2019 Nguyễn Văn H đã bị UBND thành phố Hà Nội ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 4026/QĐ-XPVPHC về hành vi “Khai thác cát trong phạm vi hành lang bảo vệ luồng mà không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tài nguyên” theo quy định tại điểm b, khoản 9 Điều 5 Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/12/2015 của Chính phủ bằng hình thức phạt tiền, mức phạt là 47.500.000 đồng. Ngày 06/8/2019, Nguyễn Văn H đã chấp hành nộp phạt xong số tiền 47.500.000 đồng nhưng tại thời điểm ngày 30/4/2020, tiền sự trên đang còn thời hiệu (theo khoản 1 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012).

Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” theo điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm32ws đến khách thể là trật tự quản lý kinh tế, ảnh hưởng đến môi trường và gây bất bình trong quần chúng nhân dân nên đòi hỏi phải áp dụng hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng tích cực trong phòng chống tội phạm nói chung.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đến tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng như các yếu tố về nhân thân và việc bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải để xử phạt bị cáo với mức hình phạt 08 tháng tù là phù hợp và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo.

[4] Xét kháng cáo đề nghị được hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Ngoài các tình tiết như bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, điều kiện hoàn cảnh khó khăn, các con còn nhỏ, tại Cơ quan điều tra và tại các phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự thì bản thân bị cáo, sau khi xét xử sơ thẩm đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình nên có ý thức chấp hành tốt pháp luật và thể hiện rõ sự ăn năn hối cải khi tự nguyện thi hành xong khoản tiền 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm (theo Biên lai thu tiền số 0065041 ngày 15/8/2022 của Cục Thi hành án dân sự Hà Nội). Bị cáo tham gia tích cực phong trào tại địa phương nơi bị cáo cư trú trong việc giữ gìn an ninh trật tự, đóng góp thiện nguyện, đặc biệt trong đợt phòng chống dịch Covid 19 vừa qua, ngoài đóng góp bằng vật chất (số tiền 5.000.000 đồng) thì bị cáo còn tích cực trong việc tuyên truyền, vận động thực hiện tốt các biện pháp chống dịch. Trên cơ sở đó UBND xã CT nơi bị cáo cư trú đã xác nhận về ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo và đề nghị Tòa án xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự được áp dụng cho bị cáo.

Đánh giá toàn diện các yếu tố về nhân thân, tính chất, mức độ, vai trò tham gia vụ án và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng, đồng thời xét thấy có cơ sở xác định bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo được hưởng án treo trong trường hợp này không làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo các điều kiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo Nguyễn Văn H được hưởng án treo.

[5] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, căn cứ điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 296/2021/HSST ngày 13/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội như sau:

1. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 227, điểm s khoản 1 và khoản Điều 51; Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 08 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhân dân xã CT, huyện V, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn H đã thi hành xong khoản tiền 200.000 đồng án phí hình sư sơ thẩm theo Biên lai thu tiền số 0065041 ngày 15/8/2022 của Cục Thi hành án dân sự Hà Nội.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (khai thác cát) số 564/2022/HS-PT

Số hiệu:564/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về