TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 13/2023/HS-ST NGÀY 23/03/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH
Trong ngày 23 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở TAND huyện Yên Định, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: NGN - Sinh năm 1962, tại Thị trấn T, huyện Yên Định, tỉnh T.
Nơi cư trú: Khu phố 2, Thị trấn T, huyện Yên Định, T; Nghề nghiệp: Dược sỹ; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quốc Tr (Đã chết), con bà Nguyễn Thị T (Đã chết); Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con thứ 2; Bị cáo có vợ là Hà Thị Thúy K, sinh năm 1973, có 02 con, sinh năm 1992 và 2003.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/10/2022 đến nay.
- Bị hại: Ông LVB, sinh năm 1969 (Đã chết) - Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Bà QTB, sinh năm 1971 (Là vợ của ông LVB - Có mặt).
Địa chỉ: Thôn P, xã S, huyện N, tỉnh T.
- Người có QLNVLQ:
1. Anh LVT, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Tiền Phong, xã Ngọc Sơn, huyện N, tỉnh T.
2. Chị LTN, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Địa chỉ: Làng Mới, xã Đồng Thịnh, huyện N, tỉnh T.
3. Bà BTH, sinh năm 1944 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Tiền Phong, xã Ngọc Sơn, huyện N, tỉnh T.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Nhung, anh Tuấn, bà Hồng: Bà QTB, sinh năm 1971 (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn Tiền Phong, xã Ngọc Sơn, huyện N, tỉnh T.
(Theo văn bản ủy quyền được các bên lập ngày 23/12/2021) - Người làm chứng:
1. Chị Hà Thị Thúy K, sinh năm 1975 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, Thị trấn T, huyện Yên Định, tỉnh T.
2. Anh HTK, sinh năm 1975 (Vắng mặt) Địa chỉ: SN 08B Mạc Đỉnh Chi, phường Nam Ngạn, Tp T, tỉnh T.
3. Anh Lê Văn G, sinh năm 1974 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Tiền Phong, xã Ngọc Sơn, huyện N, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 11/11/2021, ông LVB đi đến phòng khám chuyên khoa Răng Hàm Mặt ở khu phố 2, thị trấn T, huyện Yên Định, tỉnh T do bà Hà Thị Thúy K làm chủ để khám bệnh, thì được bà K thăm khám và chẩn đoán ông LVB bị viêm khớp, hai gối tràn dịch. Ông LVB có nhu cầu điều trị tại Phòng khám thì bà K đồng ý và đưa ra phác đồ điều trị là kháng sinh pha vào dịch truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch. Ông LVB được bà K điều trị vào ngày 11 và 12/11/2021.
Đến khoảng 09 giờ ngày 13/11/2021, ông LVB tiếp tục đến Phòng khám chuyên khoa Răng Hàm Mặt của bà K để điều trị thì bà K không có nhà. Lúc này, tại phòng khám có NGN (là chồng bà K), là Dược sỹ bán thuốc tại nhà nên ông LVB đã nhờ Nam tiếp tục điều trị thì Nam đồng ý điều trị cho ông LVB theo đơn thuốc và làm theo phác đồ điều trị tại sổ theo dõi điều trị ông LVB mà bà K đã kê vào ngày 11 và 12/11/2021.
NGN đo huyết áp và lấy máu của ông LVB thì thấy ông LVB bị hạ đường huyết, Nam hỏi thì biết ông LVB chưa ăn sáng nên bảo ông LVB ra ngoài ăn sáng rồi quay lại. Ông LVB đi ra ngoài ăn sáng, khoảng 15 phút sau ông LVB quay lại phòng khám nói với Nam đã ăn sáng rồi, Nam bảo ông LVB nằm lên giường rồi lấy 01 chai dịch Glucose Injection 5% cắm truyền vào tĩnh mạch của ông LVB với tốc độ 30 giọt/phút. Nam tiếp tục lấy lần lượt 01 lọ thuốc Supvizyn vitamin B – 2ml và 01 lọ thuốc Solumedrol pha loãng tiêm vào tai dây truyền để truyền cho ông LVB.
Sau khi lần lượt truyền hết các lọ thuốc trên, Nam tiếp tục lấy 01 lọ thuốc kháng sinh Ceftriaxone 1g pha loãng rồi bơm trực tiếp vào chai dịch Glucose Injection 5% đang truyền cho ông LVB. Lúc này, ông LVB nói buồn ngủ và nằm im, nhắm mắt, đầu nghiêng sang một bên. Khoảng 10 phút sau, Nam có hỏi ông LVB thì ông LVB không trả lời và chỉ nằm im. Nam đo huyết áp thì thấy huyết áp của ông LVB tụt thấp nên lấy ra 01 lọ Adrenalin 01ml, dạng lỏng để tiêm cho ông LVB nhưng Nam chưa tiêm. Lúc này, anh HTK (là em trai bà K) đến Phòng khám để mua thuốc thì Nam nhờ đưa ông LVB đi cấp cứu, đồng thời Nam gọi điện thoại thông báo cho bà K để bà K gọi xe cấp cứu của Bệnh viện đa khoa khu vực N. Khi đưa ông LVB đến xã Lam Sơn, huyện N thì gặp xe cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa khu vực N nên ông LVB được chuyển sang xe cấp cứu, tuy nhiên khi ông LVB được đưa sang xe cấp cứu thì xác định ông LVB đã tử vong, sau đó xe cấp cứu vẫn tiếp tục đưa ông LVB đến Bệnh viện Đa khoa khu vực N thì Bệnh viện xác định ông LVB đã tử vong.
* Quá trình khám nghiệm hiện trường, NGN đã tự nguyện giao nộp các đồ vật sau:
- 01 (một) xi lanh đã qua sử dụng bên trong có bám dính dung dịch.
- 01 (một) xi lanh đã qua sử dụng bên trong đang có dung dịch.
- 01 (một) chai nhãn hiệu "Glucose Injection 5%" bên trong có chứa dung dịch, một đầu chai cắm bơm kim tiêm và dây truyền dung dịch.
- 01 (một) vỏ ống thuốc "Supvizyn Vitamines B - 2ml" đã qua sử dụng.
- 01 (một) lọ thuốc "Solu - Medrol 40 mg" đã bị mở nắp, chưa sử dụng.
- 01 (một) vỏ ống thuốc "Adrenalin 1mg/1ml" đã qua sử dụng.
- 01 (một) ống thuốc "Ceftriaxone Sodium for Injection 1.0g" bên trong có chứa dung dịch.
Tại Kết luận giám định số 8447/PC09-P4 ngày 30/11/2021 Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: Trong tất cả các mẫu gửi giám định đều không tìm thấy các chất độc: xyanua, thuốc diệt chuột (nhóm chống đông máu, các muối phốt phua, nhóm floaxetat); hóa chất bảo vệ thực vật (thuốc trừ sâu, diệt cỏ); thuốc an thần, gây ngủ; các alkaloid độc có trong Lá ngón, Mã tiền, Ô đầu, Phụ tử.
Theo Bản kết luận giám định mô bệnh học và độc chất phủ tạng số 8498/C09-TT1, P4 ngày 16/12/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: Nguyên nhân chết của ông LVB là: Suy hô hấp do phù phổi cấp.
Tại Công văn số 1391/C09-TT1 ngày 05/7/2022 và Công văn số 3407/C09- TT1 ngày 20/12/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an có ý kiến: Căn cứ vào các loại thuốc, dịch truyền được sử dụng trong quá trình điều trị; căn cứ hoàn cảnh xuất hiện các triệu chứng lâm sàng trong quá trình điều trị với diễn biến rất nhanh dẫn đến tử vong, xác định nguyên nhân chết của ông LVB ngày 13/11/2022 là hậu quả của phản ứng phản vệ do truyền dịch có pha Ceftriaxone.
Quá trình điều tra xác định bị cáo NGN không có giấy phép khám bệnh, chữa bệnh theo quy định.
Đối với hành vi của Phòng khám chuyên khoa răng hàm mặt do bà Hà Thị Thúy K làm chủ, đã “Cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh vượt quá phạm vi chuyên môn được ghi trong giấy phép hoạt động khám, chữa bệnh”, vi phạm quy định tại điểm b, khoản 6 Điều 39 Nghị định 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Do đó, Công an huyện Yên Định đã làm công văn đề nghị UBND huyện Yên Định ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế theo đúng thẩm quyền.
Tại bản cáo trạng số 09 ngày 16/01/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định đã truy tố bị cáo NGN về tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh” theo khoản 1 Điều 315 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Yên Định giữ nguyên quyết định truy tố. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 315, Điều 65, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đề nghị xử phạt bị cáo NGN từ 21 tháng đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 42 đến 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy toàn bộ mẫu vật còn lại sau giám định.
Về án phí: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên toà, đại diện của phía bị hại xác nhận đã nhận đủ tiền bồi thường thiệt hại, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, đồng thời tha thiết đề nghị Hội đồng xét xử tạo điều kiện, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất có thể, để bị cáo được ở ngoài cộng đồng, gia đình không có ý kiến phản đối gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan điều tra Công an huyện Yên Định, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo NGN thừa nhận: Vào khoảng 09 giờ ngày 13/11/2021, tại Phòng khám Răng Hàm Mặt ở khu phố 2, thị trấn T, huyện Yên Định, bị cáo NGN không có chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo quy định, nhưng đã thực hiện truyền dịch có pha Ceftriaxone, làm ông LVB bị phản ứng phản vệ dẫn đến tử vong.
Lơi khai nhân cua bi cao phu hơp vơi kết luận giám định , tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo NGN phạm tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 315 Bộ luật hình sự.
[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, đã chủ động bồi thường, khắc phục hậu quả; bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng; bản thân bị cáo có thời gian tham gia quân đội từ năm 1980 đến năm 1984; đại diện gia đình bị hại đã có đơn xin miễn giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa đại diện gia đình bị hại tha thiết đề nghị Tòa án giảm nhẹ đến mức thấp nhất hình phạt cho bị cáo NGN, tạo điều kiện để bị cáo ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn, gia đình không có ý kiến gì khác. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội và hình phạt.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý về dịch vụ y tế của Nhà nước mà còn xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, cần thiết phải xử lý nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra. Sau khi phạm tội đã thực sự ăn năn hối cải, quan tâm, thăm hỏi và bồi thường đầy đủ cho gia đình bị hại, được gia đình bị hại làm đơn đề nghị giảm án.
Xét thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo, việc bị cáo ở ngoài cộng đồng không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Do vậy, chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng cải tạo bị cáo thành công dân tốt, đồng thời giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Về phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Hiện nay bị cáo NGN và gia đình bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường, bị cáo đã thực hiện bồi thường xong, gia đình bị hại không yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng:
Đối với các mâu vât con lai sau giam đinh được đựng trong 01 hộp dán kín, niêm phong bởi dấu đỏ của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an và các chữ ký ghi rõ họ tên của các thành phần tham gia, hiện nay các mẫu vật này không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo NGN phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 315, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 6 Luật khám bệnh, chữa bệnh.
1. Tuyên bố: Bị cáo NGN phạm tội “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”.
Xử phạt bị cáo NGN 02 (Hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (Bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo NGN cho UBND Thị trấn T, huyện Yên Định, tỉnh T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ các mẫu vật còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án, gồm: 02 xi lanh đã qua sử dụng; 01 vỏ ống thuốc "Supvizyn Vitamines B - 2ml" và 01 (một) vỏ ống thuốc "Adrenalin 1mg/1ml" đã qua sử dụng; 01 (một) lọ thuốc "Solu - Medrol 40 mg" đã bị mở nắp, chưa sử dụng; 01 (một) ống thuốc "Ceftriaxone Sodium for Injection 1.0g"; 01 (một) chai "Glucose Injection 5%", một đầu chai cắm bơm kim tiêm và dây truyền dung dịch, cùng toàn bộ bao gói niêm phong mẫu vật.
(Hiện các vật chứng trên đang được niêm phong trong 01 vỏ hộp giấy dán kín, niêm phong bởi các hình dấu đỏ của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an, và các chữ ký của những người tham gia, được bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Định, theo phiếu nhập kho số NK 17 ngày 18/01/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo NGN phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo, đại diện theo pháp luật của bị hại được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội vi phạm quy định khám bệnh, chữa bệnh số 13/2023/HS-ST
Số hiệu: | 13/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về