Bản án về tội vi phạm quy định khai thác tài nguyên số 12/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC TÀI NGUYÊN

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06 /2022/TLST-HS, ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXXST- HS, ngày 08 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn B; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01 tháng 5 năm 1972 tại xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở: Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ văn hóa: 5/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn N; Sinh năm 1942; Con bà: Nguyễn Thị H; Sinh năm 1948; Đều trú tại xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Anh chị em ruột: Có 3 người, bị cáo là con thứ 2; Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1971 (đã ly hôn); Con: 03 con (lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 2002), đều trú tại trú tại xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh;

Tiền án: Ngày 31/5/2021 bị Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh tuyên phạt 9 tháng tù giam, phạt tiền 10.000.000 đồng về tội Đánh bạc theo Bản án số 23/HSST; Ngày 15/10/2021 bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tuyên y án theo Bản án số 126/2021/HS-PT. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam theo Bản án này từ ngày 21/7/2020 đến 21/9/2020.

Tiền sự: Ngày 02/4/2021, bị Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản trái phép với số tiền 15.000.000 đồng - là căn cứ định tội.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Bảo C; sinh năm 1995; trú tại: Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

+ Anh Nguyễn Văn D; sinh năm 1975; trú tại: Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn D; sinh năm 1966; trú tại: Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

+ Cháu Nguyễn Hùng N; Sinh năm 2007; trú tại: Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 5h30’ ngày 27/11/2021, Nguyễn Văn B (sinh năm 1972, trú tại Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh) rủ Nguyễn Bảo C (sinh năm 1995, trú cùng thôn - là cháu của B) khai thác cát nhằm mục đích bán cho các cá nhân có nhu cầu, C đồng ý. Khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Văn B cùng Nguyễn Bảo C điều khiển một chiếc thuyền gỗ không có biển hiệu, trên thuyền có gắn hệ thống động cơ, máy bơm, hệ thống ống dẫn để khai thác cát (là thuyền B thường sử dụng) đi từ khu vực khe Cây Chay (đoạn thuộc địa phận Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh) ra phía lòng hồ thượng nguồn Sông Rác. Khi đi đến khu vực khe Bờ Ao (giáp ranh giữa xã K, huyện K với xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh), Nguyễn Bảo C sử dụng đò nhỏ để thả neo, Nguyễn Văn B thả ống hút cát xuống nước, dùng tay điều khiển gậy gỗ gắn với hệ thống ống đầu vào của máy bơm hút cát từ lòng hồ lên khoang chứa của thuyền. Sau khi đã khai thác đủ lượng cát, Nguyễn Văn B cùng Nguyễn Bảo C điều khiển thuyền quay lại bãi tập kết ở mép bờ Tây Nam khe Cây Chay rồi dừng thuyền để Nguyễn Bảo C thả neo, còn Nguyễn Văn B thả ống hút lên bờ và dùng máy bơm số cát đã khai thác được từ trên thuyền xuống bãi gần bờ (thời điểm này, trên bờ đang có khối lượng cát khoảng 10m3 được tập kết từ trước đó (không xác định được chủ sở hữu). Khoảng 13h cùng ngày, khi Nguyễn Văn B và Nguyễn Bảo C đang bơm cát lên bãi tập kết thì bị Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh phát hiện, lập biên bản sự việc, tạm giữ các tang vật, phương tiện có liên quan để xử lý theo quy định của pháp luật. Kết quả điều tra ban đầu xác định thể tích số khoáng sản (cát) mà Nguyễn Văn B và Nguyễn Bảo C đã khai thác là 8,192m3, có giá trị 1.826.816 đồng.

- Biên bản vụ việc do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh lập hồi 14h40’ ngày 27/11/2021, tại khu vực khe Cây Chay thuộc khu lòng hồ thượng nguồn sông Rác, ở Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh, phản ánh: Vào khoảng 13h ngày 27/11/2021, Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh phát hiện Nguyễn Văn B, sinh năm 1972, trú tại Thôn Đ, xã K, huyện K cùng một người đàn ông (chưa rõ nhân thân) đang điều khiển 01 chiếc thuyền gỗ (không có biển hiệu) hút cát từ trong khoang chứa của thuyền lên bãi bồi tại khu vực khe Cây Chay, thuộc địa phận Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

- Biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh hồi 07h30’ ngày 28/11/2021 thể hiện: Hiện trường là mép bờ Tây Nam khe Cây Chay, thuộc đập thượng nguồn sông Rác đoạn chảy qua địa phận Thôn Đ, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. Tại tọa độ 18,11825 độ Bắc và 106,17657 độ Đông có 01 chiếc thuyền gỗ (không có biển hiệu) dài 17 mét, phần rộng nhất 4,5 mét. Thuyền được chia thành 03 khoang riêng biệt. Khoang máy dài 4,4 mét, trong khoang có gắn một chiếc máy nổ được kết nối với một động cơ chân vịt và 02 máy bơm. Khoang giữa có kích thước dài 5,2 mét, rộng 4,0 mét, cao 1,9 mét, đáy khoang lót bạt dính nhiều cát. Giữa khoang tại vị trí đầu ra máy bơm có gắn hệ thống sàng. Khoang đầu dài 7,4 mét, trong khoang có gắn một chiếc máy nổ nhãn hiệu Changfa được kết nối với một chiếc máy bơm, đầu hút máy bơm được nối với một vòi cao su.

- Biên bản làm việc ngày 31/12/2021 do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh lập để xác định khối lượng khoáng sản (cát), phản ánh: Tổng khối lượng cát đã khai thác là 8,192m3.

- Biên bản làm việc ngày 01/12/2021: Sở tài nguyên môi trường tỉnh Hà Tĩnh xác nhận đến thời điểm hiện tại khu vực lòng hồ thượng nguồn sông Rác thuộc địa phận các huyện K, Cẩm Xuyên chưa được cấp phép cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào được khai thác khoáng sản (cát).

- Tại văn bản số 27/CV-TTKĐ ngày 02/12/2021 của Trung tâm kiểm định chất lượng công trình xây dựng thuộc Sở xây dựng tỉnh Hà Tĩnh kết luận: mẫu vật (ký hiệu M01) là cát hạt thô, là tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường.

- Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K, tỉnh Hà Tĩnh, kết luận: Đơn giá cát hạt thô tính theo đơn vị m3 là 223.000 đồng/m3. Tổng 8,192m3 cát, trị giá 1.826.816.000 đồng Với hành vi trên, tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-P1, ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội "Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên", theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội "Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên".

- Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1, khoản 3 Điều 227, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, 56 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 9 - 12 tháng tù về tội "Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên", phạt tiền bổ sung bị cáo 50.000.000đồng. Tổng hợp hình phạt với bản án số 126/2021/HS-PT ngày 15/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt bị cáo 09 tháng tù, phạt tiền bổ sung 10.000.000đồng, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung từ 18 - 21 tháng tù, hình phạt bổ sung 60.000.000đồng.

Ngoài ra còn đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước 18m3 cát, trả lại chiếc thuyền cho ông Nguyễn Văn D, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo khẳng định nội dung Cáo trạng đã truy tố là đúng và không có ý kiến gì tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật; Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Vì vậy, khẳng định quyết định, hành vi của các cơ quan tố tụng và của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Ngày 02/4/2021, Nguyễn Văn B bị Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản (cát) trái phép. Mặc dù đã bị cơ quan chức năng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản trái phép nhưng vào ngày 27/11/2021, Nguyễn Văn B tiếp tục có hành vi khai thác trái phép khoáng sản tại khu vực khe Bờ Ao, giáp ranh giữa xã K, huyện K với xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Khối lượng khoáng sản Nguyễn Văn B khai thác là 8,192 m3 cát, có giá trị 1.826.816 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn B là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến chế độ quản lý khai thác khoáng sản của Nhà nước được quy định tại Luật khoáng sản, làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái và môi trường dưới lòng sông. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự với lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ mục đích thu lợi cá nhân. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội "Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên" được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, sai.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đang có một tiền án về tội Đánh bạc theo Bản án hình sự sơ thẩm số 23/HSST ngày 31/5/2021 của Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh và bản án hình sự phúc thẩm số 126/2021/HS-PT ngày 15/10/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh; 01 tiền sự cùng về hành vi khai thác khoáng sản trái phép bị Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15.000.000 đồng ngày 02/4/2021. Nhưng bị cáo vẫn tiếp tục phạm tội nên đã phạm vào tình tiết “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải nên được nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; hoàn cảnh gia đình hiện tại khó khăn, vợ ly hôn, cha mẹ già yếu, mẹ bị mù mắt nên cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

[4] Về hình phạt: Trên cơ sở xem xét một cách toàn diện về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc để răn đe, giáo dục chung. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về vật chứng: Đối với các vật chứng: 18 m3 cát (trong đó 8,192 m3 cát là do Nguyễn Văn B và Nguyễn Bảo C khai thác trái phép; 9,908 m3 cát vô chủ thu tại hiện trường) là những tài sản do phạm tội mà có cần áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với vật chứng là 01 chiếc thuyền gỗ không có biển hiệu, kích thước dài 17m, rộng 4,45m; trên thuyền có gắn 02 chiếc máy nổ, trong đó có 01 chiếc không có nhãn hiệu, 01 chiếc có nhãn hiệu ChangFa; 03 chiếc máy bơm không có nhãn hiệu; hệ thống ống bằng cao su; hệ thống sàng lọc cát do bị cáo mượn của anh Nguyễn Văn Dị. Khi cho bị cáo mượn, anh Dị không biết bị cáo lấy sử dụng vào việc phạm tội nên cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS tuyên trả lại cho anh Dị.

[7] Về các vấn đề khác:

- Đối với Nguyễn Bảo C là người đi khai thác cát cùng với Nguyễn Văn B vào ngày 27/11/2021. Tuy nhiên, xét thấy khối lượng cát Nguyễn Bảo C khai thác chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Chung chưa có tiền án, tiền sự về hành vi vi phạm quy định về khai thác tài nguyên. Do vậy, không đủ căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Bảo C về tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tĩnh đã chuyền hồ sơ, tài liệu liên quan cho Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh xem xét xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Bảo C theo quy định.

- Đối với Nguyễn Văn D là người mua chiếc thuyền của Nguyễn Văn B và cho Nguyễn Văn B mượn để sử dụng. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Dị không biết việc Nguyễn Văn B sử dụng thuyền để khai thác cát trái phép vào ngày 27/11/2021 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh không xem xét trách nhiệm hình sự với Nguyễn Văn Dị là có căn cứ.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo bị kết tội nên phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 1, khoản 3 Điều 227, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, b khoản 1 Điều 47, Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự; Điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội "Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 03/12/2021.

Phạt tiền bổ sung bị cáo 50.000.000đồng (năm mươi triệu đồng).

Tổng hợp hình phạt với bản án hình sự phúc thẩm số 126/2021/HS-PT ngày 15/10/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt bị cáo 09 tháng tù, phạt tiền bổ sung 10.000.000đồng về tội “Đánh bạc”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là: 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2021 được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/7/2020 đến ngày 21/9/2020 theo Bản án hình sự phúc thẩm số 126/2021/HS-PT ngày 15/10/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và hình phạt bổ sung phạt tiền 60.000.000đồng.

3.Về vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước 18m3 cát. Trả lại cho anh Nguyễn Văn D 01 chiếc thuyền gỗ không có biển hiệu, kích thước dài 17m, rộng 4,45m; trên thuyền có gắn 02 chiếc máy nổ, trong đó có 01 chiếc không có nhãn hiệu, 01 chiếc có nhãn hiệu ChangFa; 03 chiếc máy bơm không có nhãn hiệu; hệ thống ống bằng cao su; hệ thống sàng lọc cát. Vật chứng hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định khai thác tài nguyên số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về