Bản án về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản số 159/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 159/2023/HS-ST NGÀY 24/11/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ LÂM SẢN

Trong ngày 24 tháng 11 năm 2023, Tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 145/2023/HSST ngày 20 tháng 10 năm 2023 theo Q định đưa vụ án ra xét xử số: 237/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Bế Ích Q; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 16 tháng 02 năm 1987 tại huyện Hòa A, tỉnh Cao Bằng; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm Pác G, xã Hồng V, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Chức vụ đoàn thể trước khi phạm tội: Không; Trình độ học vấn: 12/12 phổ thông; Con ông: Bế Ích P và bà: H Thị T; Anh, chị, em ruột: Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có 04 anh chị em; Vợ: Lý Thị H; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 21/11/2022 bị Chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vận chuyển, mua bán lâm sản trái pháp luật và vi phạm quy định về quản lý hồ sơ lâm sản trong vận chuyển, mua bán, cất giữ, chế biến lâm sản. Bị cáo hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 12/9/2023 đến nay. Có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông H Văn D, sinh năm 1975; Địa chỉ: Xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng.

2. Ông Lương Đình Th, sinh năm: 1983; Địa chỉ: Thôn Đèo V I, xã Quảng Ch, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.

3. Bà Phạm Thị H, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Thôn Nà L, xã Quảng Ch, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.

- Người làm chứng:

1. Ông Nông Văn N, sinh năm: 1986; Địa chỉ: Xóm Đoỏng L - Chi Ch, xã Đình Ph, huyện K, tỉnh Cao Bằng.

2. Ông H Văn T, sinh năm: 1950; Địa chỉ: Xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng.

3. Ông Nông Văn T, sinh năm: 1985;

4. Ông Nông Văn Ph, sinh năm: 1976;

Cùng địa chỉ: Xóm Chung S, xã Đình Ph, huyện K, tỉnh Cao Bằng.

Vắng mặt có lý do các ông D, Th, T, bà H, vắng mặt không có lý do ông N, T, Ph.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 16 giờ ngày 11/5/2023 tại km 267 + 400 Quốc lộ 3 thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tổ công tác Phòng Cảnh sát môi trường phối hợp với Chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng đang làm nhiệm vụ phát hiện Bế Ích Q (sinh năm: 1987; Trú tại: xóm Pác G, xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng) điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát: 97H-xxxxxkéo theo sơ mi rơ móc biển kiểm soát 26R-xxxxx di chuyển từ hướng thành phố Cao Bằng về xã Bạch Đằng, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng có biểu hiện vi phạm pháp luật. Tổ công tác đã yêu cầu Q dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện tại thùng sơ mi rơ móc biển kiểm soát 26R-xxxxx có nhiều loại lâm sản, cụ thể:

+ 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc có tổng khối lượng 0,883 m³;

+ 216 khúc gỗ Sau sau dạng tròn cắt khúc có tổng khối lượng 6,495 m³;

+ 227 khúc gỗ Thông dạng tròn cắt khúc có tổng khối lượng 5 m³;

+ 20 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Thông) dạng củi, tròn cắt khúc; 4 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Sau sau) dạng củi, tròn cắt khúc.

Kết quả đối chiếu khối lượng, chủng loại lâm sản thực tế Bế Ích Q vận chuyển xác định: 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc, khối lượng 0,883 m³ không có trong 02 (hai) Bảng kê lâm sản (bản photo) do Bế Ích Q xuất trình. Tại cơ quan điều tra Q khai nhận toàn bộ số gỗ trên là của H Văn D (sinh năm: 1975; trú tại: xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng) thuê Q vận chuyển với giá 300.000đ/tấn gỗ.

Ngày 28/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng ra Q định trưng cầu giám định số 263 đối với vật chứng vụ án. Tại bản kết luận giám định số 02 ngày 01/8/2023 của Chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng, kết luận:

TT

Ký hiệu mẫu giám định

Tên loại gỗ

Nhóm gỗ

Tên Việt Nam

Tên khoa học

1

GĐ 01

Cáng lò

Betula alnoides Halmilton

 

2

GĐ 02

Cáng lò

Betula alnoides Halmilton

 

3

GĐ 03

Sau sau

Liquidambar formosana hance

 

4

GĐ 04

Sau sau

Liquidambar formosana hance

 

5

GĐ 05

Thông đuôi ngựa

Pinusmassonisca Lambert

 

6

GĐ 06

Thông đuôi ngựa

Pinusmassonisca Lambert

 

7

GĐ 07

Thông đuôi ngựa

Pinusmassonisca Lambert

 

8

GĐ 08

Thông đuôi ngựa

Pinusmassonisca Lambert

 

9

GĐ 09

Sau sau

Liquidambar formosana hance

 

10

GĐ 10

Sau sau

Liquidambar formosana hance

 

Gỗ Cáng lò (Betula alnoides Halmilton), gỗ Sau sau (Liquidambar formosana hance) và gỗ Thông đuôi ngựa (Pinusmassonisca Lambert) không có tên trong Danh mục các loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiểm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 84/2021/NĐ-CP ngày 22/9/2021 của Chính phủ) và không có tên trong Phụ lục CITES (ban hành kèm theo Thông báo số 25/TB-CTVN ngày 17/02/2023 của Cơ quan thẩm quyền Quản lý CITES Việt Nam).

Ngày 18/8/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng có Yêu cầu định giá tài sản số 978 đối với vật chứng vụ án. Tại bản kết luận định giá tài sản số 56 ngày 25/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Cao Bằng kết luận:

+ 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc, khối lượng 0,883 m³ có giá trị tài sản là: 868.283đ (tám trăm sáu mươi tám nghìn hai trăm tám mươi ba đồng) + 216 khúc gỗ sau sau dạng tròn cắt khúc, khối lượng 6,495 m³ có giá trị tài sản là: 6.386.747đ (sáu triệu ba trăm tám mươi sáu nghìn bẩy trăm bốn mươi bẩy đồng) + 227 khúc gỗ thông dạng tròn cắt khúc, khối lượng 5 m³ có giá trị tài sản là: 4.916.665đ (bốn triệu chín trăm mười sáu nghìn sáu trăm sáu mươi lăm đồng) + 20 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Thông) dạng củi, tròn cắt khúc có giá trị tài sản là: 6.000.000đ (sáu triệu đồng) + 4 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Sau sau) dạng củi, tròn cắt khúc có giá trị tài sản là: 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) Tổng giá trị tài sản là: 19.371.695đ (mười chín triệu ba trăm bẩy mươi mốt nghìn sáu trăm chín mươi lăm đồng) Quá trình điều tra xác định: Tháng 4/2023, H Văn D mua 45 cây gỗ Sau sau với Nông Văn N (sinh năm:1986; Trú tại: xóm Đoỏng L - Chi Ch, xã Đình Ph, huyện K, tỉnh Cao Bằng) trong đất vườn của N với giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng) và mua 28,60 m3 gỗ Thông với H Văn T (sinh năm:1950; Trú tại: xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng) với giá 69.000.000đ (sáu mươi chín triệu đồng) tại rừng của Tồng quản lý (thuộc quy hoạch đất rừng sản xuất, diện tích 0,47ha). D đã thuê Nông Văn T (sinh năm: 1985) và Nông Văn Ph (sinh năm: 1976) cùng trú tại xóm Chung S, xã Phong Ch, huyện K, tỉnh Cao Bằng khai thác gỗ tại 02 khu vực trên và đã được Hạt kiểm lâm huyện K, tỉnh Cao Bằng kiểm tra, xác nhận việc khai thác. Trong quá trình khai thác gỗ Thông tại rừng của H Văn T, D đã chỉ đạo T và Ph khai thác một số cây Cáng lò có tổng khối lượng 0,883 m3 khi chưa được sự đồng ý của Tồng. Sau khi khai thác xong, tất cả số gỗ được vận chuyến đến đối diện bãi xe L thuộc xã Đình Phong, huyện K, tỉnh Cao Bằng và bãi tập kết gỗ tại xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng.

Khoảng 6 giờ ngày 11/5/2023, khi Phạm Thị H (sinh năm: 1989; Trú tại: Thôn Nà L, xã Quảng Ch, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn) đang đi cùng lái xe chở hàng cho H là Bế Ích Q thì H Văn D gọi điện thoại cho Q hỏi thuê vận chuyển gỗ đến nhà máy D ở thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên với giá 300.000đ/tấn gỗ thì Q và H đồng ý. Sau đó, Q và H điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 97H-xxxxxkéo theo Sơ mi rơ moóc BKS: 26R-xxxxx đến bãi tập kết gỗ đối diện bãi xe L và bãi tập kết gỗ tại xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng bốc gỗ lên xe. D đã thuê máy gắp gỗ của Đỗ Trung S (sinh năm: 1973; Trú tại: xóm An Hỳ, xã Ngọc Khê, huyện K, tỉnh Cao Bằng) và nhờ S thuê Nông Văn T và Nông Văn Ph bốc gỗ lên xe ô tô biển kiểm soát 97H-xxxxx. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì hoàn thành việc chuyển gỗ lên xe ô tô, D đã đưa cho Bế Ích Q 01 (một) bản photo bảng kê lâm sản gỗ Sau sau và 01 (một) bản photo bảng kê lâm sản gỗ Thông. Sau đó, Q và H lên xe ô tô biển kiểm soát 97H-xxxxxvận chuyển gỗ đi tỉnh Thái Nguyên. Đến 15 giờ 50 phút cùng ngày, khi Q và H đi đến Km 267+400, Quốc lộ 3 thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát môi trường phối hợp với Chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng yêu cầu dừng xe, kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện trong số gỗ Q và H vận chuyển cho D có 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc có tổng khối lượng 0,883 m³ không có giấy tờ, nguồn gốc hợp pháp.

Ngày 12/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng có Công văn số 438 đề nghị Chi cục Kiểm lâm tỉnh Cao Bằng tra cứu tiền án, tiền sự đối với Bế Ích Q. Tại Công văn số 263 ngày 16/5/2023 của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Cao Bằng xác định: Bế Ích Q có 01 tiền sự về hành vi vận chuyển, mua bán lâm sản trái pháp luật và vi phạm quy định về quản lý hồ sơ lâm sản trong vận chuyển, mua bán, cất giữ, chế biến lâm sản theo Q định xử phạt vi phạm hành chính số 180 ngày 21/11/2022 của Chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng. Ngày 23/11/2022 Q thi hành xong Q định xử phạt vi phạm hành chính, tính đến thời điểm thực hiện hành vi vi phạm vào ngày 11/5/2023 Q chưa đủ thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tại Bản cáo trạng số: 147/CT - VKSTP, ngày 19 tháng 10 năm 2023. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Bế Ích Q về tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản " theo qui định tại điểm m khoản 1 Điều 232 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà:

Bị cáo Bế Ích Q khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt và lời khai tại cơ quan điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông H Văn D khai nhận: Khoảng tháng 4/2023 ông có hợp đồng mua 45 cây gỗ Sau sau với Nông Văn N (sinh năm:1986; Trú tại:

xóm Đoỏng L - Chi Ch, xã Đình Phong, huyện K, tỉnh Cao Bằng) trong đất vườn của N với giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng) và mua 28,60 m3 gỗ Thông với H Văn T (sinh năm:1950; Trú tại: xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng) với giá 69.000.000đ (sáu mươi chín triệu đồng) tại rừng của Tồng quản lý (thuộc quy hoạch đất rừng sản xuất, diện tích 0,47ha). D đã thuê Nông Văn T (sinh năm: 1985) và Nông Văn Ph (sinh năm: 1976) cùng trú tại xóm Chung Sơn, xã Phong Châu, huyện K, tỉnh Cao Bằng khai thác gỗ tại 02 khu vực trên và đã được Hạt kiểm lâm huyện K, tỉnh Cao Bằng kiểm tra, xác nhận việc khai thác. Trong quá trình khai thác gỗ Thông tại rừng của H Văn T, D đã chỉ đạo T và Ph khai thác một số cây Cáng lò có tổng khối lượng 0,883 m3 khi chưa được sự đồng ý của Tồng. D nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và bản thân đã bị Công an thành phố Cao Bằng ra Q định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Mua bán, chế biến lâm sản trái pháp luật và vi phạm quy định về quản lý hồ sơ lâm sản trong vận chuyển, mua bán, cất giữ, chế biến lâm sản. Nay đề nghị HĐXX xem xét trả lại số gỗ Thông và gỗ Sâu sâu có giấy tờ hợp pháp cho ông theo quy định của pháp luật.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt và lời khai tại cơ quan điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H khai nhận: Khoảng 6 giờ ngày 11/5/2023, khi Phạm Thị H (sinh năm: 1989; Trú tại: Thôn Nà L, xã Quảng Ch, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn) đang đi cùng lái xe chở hàng cho H là Bế Ích Q thì H Văn Dgọi điện thoại cho Q hỏi thuê vận chuyển gỗ đến nhà máy D ở thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên với giá 300.000đ/tấn gỗ thì Q và Hđồng ý. Sau đó, Q và Hđiều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 97H-xxxxxkéo theo Sơ mi rơ moóc BKS: 26R-xxxxx đến bãi tập kết gỗ đối diện bãi xe L và bãi tập kết gỗ tại xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng bốc gỗ lên xe. D đã thuê máy gắp gỗ của Đỗ Trung S (sinh năm: 1973; Trú tại: xóm An Hỳ, xã Ngọc Khê, huyện K, tỉnh Cao Bằng) và nhờ S thuê Nông Văn T và Nông Văn Ph bốc gỗ lên xe ô tô biển kiểm soát 97H-xxxxx. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì hoàn thành việc chuyển gỗ lên xe ô tô, D đã đưa cho Bế Ích Q 01 (một) bản photo bảng kê lâm sản gỗ Sau sau và 01 (một) bản photo bảng kê lâm sản gỗ Thông. Sau đó, Q và Hlên xe ô tô biển kiểm soát 97H-xxxxxvận chuyển gỗ đi tỉnh Thái Nguyên. Đến 15 giờ 50 phút cùng ngày, khi Q và Hđi đến Km 267+400, Quốc lộ 3 thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát môi trường phối hợp với Chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng yêu cầu dừng xe, kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện trong số gỗ Q và H vận chuyển cho D có 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc có tổng khối lượng 0,883 m³ không có giấy tờ, nguồn gốc hợp pháp. H nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và bản thân đã bị Công an thành phố Cao Bằng ra Q định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật và không có ý kiến gì thêm.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt và lời khai tại cơ quan điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lương Đình Thể xác nhận: 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 97H-xxxxxkéo theo Sơ mi rơ moóc BKS: 26R-xxxxx là tài sản thuộc sở hữu của ông. Bà Phạm Thị H có làm hợp đồng thuê xe với ông, trong Điều 4 của Hợp đồng có quy định cấm bên B bà H sử dụng xe trở hàng Quốc cấm, hàng lậu, hay sử dụng vào các mục đích xấu. Việc bà H vi phạm hợp đồng, lấy xe đi chở hàng trái phép ông không biết và không cho phép. Nay cơ quan Công an đã làm rõ và trả lại xe cho ông nên ông không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào điểm m khoản 1 Điều 232 của Bộ Luật hình sự, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Bế Ích Q phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”. Về hình phạt, đề nghị HĐXX căn cứ vào điểm m khoản 1 Điều 232, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Bế Ích Q, xử phạt bị cáo Bế Ích Q mức hình phạt tiền, số tiền từ 50.000.000đ - 60.000.000đ.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử:

Tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà nước: 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc, khối lượng 0,883 m³;

Trả lại cho chủ sở hữu ông H Văn D: 216 khúc gỗ sau sau dạng tròn cắt khúc, khối lượng 6,495 m³; 227 khúc gỗ thông dạng tròn cắt khúc, khối lượng 5 m³;

20 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Thông) dạng củi, tròn cắt khúc; 4 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Sau sau) dạng củi, tròn cắt khúc.

Về án phí, đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của kiểm sát viên về tội danh và hình phạt. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[1] Về hành vi, Q định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Q định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Q định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi vận chuyển trái phép 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc có tổng khối lượng 0,883 m³ không có giấy tờ, nguồn gốc hợp pháp mà bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua đó đã chứng minh được: Hồi 16 giờ ngày 11/5/2023 tại km 267 + 400 Quốc lộ 3 thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tổ công tác Phòng Cảnh sát môi trường phối hợp với Chi cục kiểm lâm tỉnh Cao Bằng phát hiện, lập biên bản đối với Bế Ích Q về hành vi vận chuyển 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc có tổng khối lượng 0,883 m³ không có giấy tờ, nguồn gốc hợp pháp. Bế Ích Q có 01 tiền sự về hành vi vận chuyển, mua bán lâm sản trái pháp luật và vi phạm quy định về quản lý hồ sơ lâm sản chưa đủ thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Hành vi của bị cáo Bế Ích Q đã phạm vào tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự.

“Điều 232. Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 243 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ....

m) Khai thác, tàng trữ, vận chuyển, chế biến hoặc mua bán trái phép gỗ hoặc thực vật rừng ngoài gỗ có khối lượng hoặc trị giá dưới mức quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm l khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng truy tố bị cáo Bế Ích Q tội "Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản" là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Bế Ích Q đã xâm phạm đến Trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi vận chuyển trái phép gỗ là phạm pháp, nhưng do bản thân bị cáo chỉ là người lái xe thuê, vì mục đích lợi nhuận trước mắt mà bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm Trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232 của Bộ luật hình sự:

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra khai báo thành khẩn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Bế Ích Q thực hiện hành vi vận chuyển trái phép lâm sản gỗ Cáng lò với khối lượng ít (0,883m3), phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Nhà nước, bị cáo không phải là người khai thác, buôn bán mà chỉ là người lái xe thuê, vì lợi ích vật chất trước mắt và do sơ xuất trong khâu kiểm đếm, quản lý hồ sơ trước khi vận chuyển nên chưa cần áp dụng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo cũng đảm bảo tính răn đe và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: HĐXX áp dụng hình phạt chính là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về việc xử lý vật chứng:

Đối với 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc, khối lượng 0,883 m³. Đây là số gỗ vận chuyển trái phép, không có hồ sơ, còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà nước.

Đối với 216 khúc gỗ sau sau dạng tròn cắt khúc, khối lượng 6,495 m³; 227 khúc gỗ thông dạng tròn cắt khúc, khối lượng 5 m³; 20 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Thông) dạng củi, tròn cắt khúc; 4 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Sau sau) dạng củi, tròn cắt khúc. Đây là số gỗ có giấy tờ mua bán hợp pháp, được phép vận chuyển, mua bán, chế biến, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho chủ sở hữu ông H Văn D.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Q số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9]. Đề nghị của đại diện viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt phù hợp với nhận định của Tòa án nên cần được chấp nhận.

[10] Đối với hành vi vi phạm của ông H Văn D chủ gỗ và người vận chuyển thuê bà Phạm Thị H. Do khối lượng gỗ vận chuyển trái phép chưa đủ khối lượng để khởi tố nên cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã ra Q định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm m khoản 1 Điều 232, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Bế Ích Q.

Tuyên bố: Bị cáo Bế Ích Q phạm tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

Xử phạt: Bị cáo Bế Ích Q hình phạt tiền, số tiền là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xử:

Tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà nước: 37 khúc gỗ Cáng lò dạng tròn cắt khúc, khối lượng 0,883 m³ ;

Trả lại cho chủ sở hữu ông H Văn D, trú tại: Xóm An H, xã Ngọc Kh, huyện K, tỉnh Cao Bằng: 216 khúc gỗ sau sau dạng tròn cắt khúc, khối lượng 6,495 m³; 227 khúc gỗ thông dạng tròn cắt khúc, khối lượng 5 m³; 20 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Thông) dạng củi, tròn cắt khúc; 4 ster Thực vật rừng ngoài gỗ (Sau sau) dạng củi, tròn cắt khúc.

Vật chứng trên hiện đang được lưu tại kho Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 20, ngày 22/11/2023.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Bế Ích Q phải chịu nộp 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung Ngân sách nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 24/11/2023. người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản số 159/2023/HS-ST

Số hiệu:159/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về