Bản án về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ LÂM SẢN

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Lăng Quốc T; Sinh ngày 05 tháng 5 năm 1982 tại huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã X, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lăng Đức T; Siinh năm: 1957 và bà Nguyễn Thị T; Sinh năm:1960; Có vợ: Trần Thị Q, sinh năm 1984 và 02 con (con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2015);

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 08/6/2021 Hạt kiểm lâm thành phố H, tỉnh Hà Giang xử phạt hành chính theo Quyết định số 03/QĐ-XPVPHC về hành vi vận chuyển lâm sản trái pháp luật.

Ngày 03/12/2021 Công an huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính (số lưu trữ 60XP21/10403V) về hành vi chỉnh sửa, làm sai lệch thông tin trên giấy nhận diện phương tiện có BKS: 90C-02729.

Nhân thân: Ngày 24/11/2020 Công an huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc xử lý vi phạm hành chính theo Quyết định số 127/XPHC về hành vi đánh bạc.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Nguười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Văn S; Sinh năm: 1964:

Nơi cư trú: Thôn Văn T, xã N, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã X, huyện L tỉnh Vĩnh Phúc.Có mặt.

2. Anh Vàng Chừ C, sinh năm 1978. Nơi cư trú: Thôn G, xã C, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

3. Anh: Thào Mí M, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Hà Giang Có mặt.

4. Thào Mí G; sinh năm: 1995. Nơi cư trú: Thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

5. Thào Mí C; sinh năm: 1993. Nơi cư trú: Thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

6. Hạng Mí S; sinh năm: 1985. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã , huyện Q, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10/2021 Vàng Chừ C đi chợ thì gặp một phụ nữ khoảng 50 tuổi, giới thiệu tên là M1 (không biết đầy đủ họ, tên đệm, năm sinh và địa chỉ ở đâu, có số điện thoại 0338.773.511) và hỏi C là có gom được gỗ Bách xanh không, nếu gom được gỗ thì bán cho M1, C đồng ý. Sau một thời gian M1 đến nhà C để thỏa thuận việc thu mua gỗ Bách xanh với giá là 17.000 đồng/1kg, C đồng ý và M1 đã ứng trước cho C 50.000.000 đồng để đi thu mua gỗ. Sau khi thỏa thuận và nhận tiền, C đã gọi điện cho Thào Mí M và kể cho M biết việc có người muốn thu mua gỗ Bách xanh với giá 17.000 đồng/1kg, rồi hỏi M có thu gom được để cùng bán cho M1 không, M đồng ý, sau đó C và M bàn bạc cùng đi thu mua gỗ của người dân trên địa bàn xã và xã B, huyện Q với giá 10.000 đồng/01kg, phần lợi nhuận sẽ chia đôi. Khoảng 25 ngày sau, M1 tiếp tục lên nhà C đưa cho C 50.000.000 đồng và dặn C khi nào thu gom được một xe 08 tấn thì gọi điện cho M1 để M1 thuê xe đến vận chuyển về. Đến ngày 12/12/2021, C và M gom được 8,1 tấn (mỗi người thu mua được khoảng 04 tấn) và chi hết 81.000.000 đồng tiền của M1 đã cho ứng, còn lại 19.000.000 đồng, C và M đã chia nhau mỗi người 9.500.000 đồng sau đó đã chi tiêu cá nhân hết. Quá trình mua gom gỗ, chủ yếu mua vào ban đêm nên C và M không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người dân đến bán. Số gỗ Bách xanh mua được về tập kết tại nhà anh Giàng Nỏ S (em rể của Vàng Chừ C) tại thôn G, xã C, huyện Q, tỉnh Hà Giang do S đi làm thuê có giao lại nhà cho C quản lý, trông coi.

Sau khi đã mua gom được khoảng hơn 8 tấn gỗ Bách xanh, Vàng Chừ C đã gọi điện thông báo cho M1 biết để M1 cho người đến vận chuyển. Ngày 12/12/2021, M1 có đến nhà C xem gỗ và hẹn ngày 14/12/2021 sẽ thuê xe đến chở, rồi bảo C và M chuẩn bị người để bốc gỗ lên xe. Đến chiều ngày 14/11/2021, M đã gọi điện cho bị cáo Lăng Quốc T để thuê T đi chở gỗ tại huyện Q, tỉnh Hà Giang, tiền công là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng), T không biết là gỗ gì nhưng vẫn đồng ý đi, sau đó M có dặn T phải mang thêm gỗ tạp và bao mùn cưa lên xe để ngụy trang, tránh bị cơ quan chức năng phát hiện (bị cáo T chỉ mới quen biết M1, biết M1 cùng quê, không rõ họ, tên và địa chỉ cụ thể). Chiều cùng ngày T rủ Nguyễn Văn T1 ở cùng thôn với T đi cùng chơi, nhưng không nói mục đích cho T1 biết, TT chỉ đi cùng, không bàn bạc hay thỏa thuận lợi ích gì với T. Khoảng 16 giờ, T điều khiển xe ô tô tải Biển kiểm soát 88C – 067.13, do T thuê của anh Nguyễn Văn S, trú tại thôn V, xã N, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc đi bốc gỗ tạp và mùn cưa, rồi đón Nguyễn Văn T1 đi lên huyện Q, tỉnh Hà Giang. Về nguồn gốc xe ô tô Biển kiểm soát 88C – 067.13 trước đó là của T đến ngày 06/9/2021 T bán cho Nguyễn Văn S có hợp đồng mua bán và chứng thực của UBND xã, sau đó T lại thuê lại xe của anh S vào ngày 10/12/2022 để làm phương tiện vận chuyển thuê. Đến ngày 14/12/2021 T nhất trí đi từ nhà lên Hà Giang chở gỗ thuê cho M1, trên đường đi, M1 sử dụng số điện thoại 0338.773.511 để liên lạc và chỉ đường, đến khoảng 01 giờ ngày 15/12/2021 T lái xe đến địa điểm bốc gỗ tại nhà của Giàng Nỏ S, thôn G, xã C, huyện Q. Trước đó Thào Mí M thuê Thào Mí G, Thào Mí C và Hạng Mí S tham gia bốc gỗ với giá 300.000 đồng/người, khi đến nơi thấy có những người khác cùng tham gia (có khoảng 10 người). Quá trình bốc gỗ, M1 đi cùng một người đàn ông không rõ danh tính, đi xe ô tô loại 7 chỗ màu đen (không rõ nhãn hiệu xe và biển kiểm soát) đến nơi đang bốc gỗ và yêu cầu mọi người không được bật đèn, không được nói chuyện, do vậy không xác định được số người bốc gỗ còn lại là ai, ở đâu, do ai thuê.

Sau khi bốc xong số gỗ Bách xanh lên xe T tiếp tục xếp bao tải chứa mùn cưa và gỗ tạp mang theo trước đó vào thùng xe để tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng rồi điều khiển xe ô tô đi theo hướng lên huyện Y, Hà Giang, đi được khoảng 10km thì dừng nghỉ, đến 06 giờ ngày 15/12/2021, T điều khiển xe vận chuyển toàn bộ số gỗ trên về thành phố H theo yêu cầu của M1 và đến địa phận xã L, huyện Q, tỉnh Hà Giang thì bị Công an huyện Q phát hiện, thu giữ vật chứng.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Lăng Quốc T và Vàng Chừ C, Thào Mì M đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, biết được hành vi của mình là mua bán, vận chuyển lâm sản trái pháp luật, biết số gỗ trên là Bách xanh, thuộc danh mục gỗ quý, hiếm, không có nguồn gốc hợp pháp nhưng vẫn thực hiện hành vi nhằm thu lợi bất chính.

Ngày 15/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q đã xác định số gỗ vận chuyển là 247 khúc gỗ (nhiều hình thù khác nhau) có khối lượng là 8.443kg (tám nghìn bốn trăm bốn mươi ba) tương đương với 8,443m3(tám phẩy bốn bốn ba mét khối).

Ngày 16/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q tiến hành xác định hiện trường điểm tập kết 8,443m3 gỗ đã bị thu giữa là anh anh Giàng Sử N. Ngoài ra còn thu giữ được 02 cục gỗ, được ký hiệu riêng 248 và 249 của Vàng Chừ C và cùng chủng loại với 247 khúc gỗ đặt trên ô tô tải BKS: 88C – 067.13.

Sau khi cân tịnh xác định tổng khối lượng 02 khúc gỗ là 52 kg tương đương 0,052m3.

Tại kết luận giám định số 86/CNR-VP ngày 28/02/2022 của Viện nghiên cứu công nghiệp rừng thuộc Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã kết luận:

- Số lượng 249 cục gỗ có hình thù phức tạp, có ký hiệu từ 01 đến 249 có khối lượng 8,495kg được quy đổi tương đương 8,495m3 - Tên Việt Nam: Bách xanh - Tên khoa học: Calocedrus macrolepis Kurz.

Gỗ Bách xanh được xếp nhóm IIA trong ‘‘ Danh mục thực vật, động vật rừng nguy cấp quý hiếm ban hành theo Nghị định số 84/2021/NĐ-CP ngày 22/9/2021 của Chính phủ’’.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTXTTTHS ngày 20/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản đã kết luận: Tổng giá trị của 249 cục gỗ bách xanh khối lượng là 8.495kg (tương đương với 8,495m3)là 127.425.000 đồng (một trăm hai mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi năm nghìn đồng).

Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ các vật chứng:

- Thu giữ của Lăng Quốc T:

+ 247 (hai trăm bốn mươi bảy) khúc gỗ có đặc điểm, hình thù khác nhau, được đánh số theo thứ tự từ 01 đến 247( có khối lượng 8443kg, tương đương 8,443m3) + 03 (ba) bao tải màu xanh, bên trong chứa nhiều vụn gỗ, phần đầu được buộc kín.

+ 14 (mười bốn) bó gỗ tạp gồm nhiều thanh gỗ dạng hình trụ, đường kính 02cm, dài 80cm.

+ 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen (mặt sau ghi chữ SAMSUNG), điện thoại cũ đã qua sử dụng.

+ 01 (một) chiếc điện thoại cảm ứng màu vàng cát (mặt sau ghi chữ SAMSUNG, mặt trước ghi chữ SAMSUNG), góc phải màn hình bị vỡ, giữa màn hình có vết nứt, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

+ 01 (một) căn cước công dân số: 026082003870, mang tên Lăng Quốc T, cấp ngày 25/5/2017.

+ 01 (một) giấy phép lái xe số 250107001972 mang tên Lăng Quốc T.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 006765 mang tên Lăng Quốc T, biển số xe: 88C – 067.13 + 01 (một) bảo hiểm tự nguyện số AD20/0151432.

+ 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số 6603320.

+ 01 (một) thẻ ngân hàng Quân đội MB bank mang tên Lăng Quốc T, số thẻ 4089041085431880.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 19B8003414.

+ 01 (một) giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô số 845/2017/GPVT-HH.

+ 01 (một) xe ô tô tải, màu trắng, biển kiểm soát 88C – 067.13, nhãn hiệu THACO, phần thùng xe được phủ bạt kín màu xanh, xe cũ đã qua sử dụng.

- Tạm giữ của Nguyễn Văn T1:

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động màu vàng cát, nhãn hiệu SAMSUNG, mặt hình cảm ứng, mặt sau góc phải kính bị vỡ, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

+ 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn T1, cấp ngày 01/3/2011 do Công an tỉnh Vĩnh Phúc cấp.

+ 01 (một) giấy phép lái xe số: 260100265170 mang tên Nguyễn Văn T1.

- Thu giữ của Thào Mí M:

+ 01 (một) chứng minh nhân dân số 073529289 mang tên Thào Mí M.

+ 01 (một) Căn cước công dân số 002086010205, mang tên Thào Mí M.

- 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Agribank số 9704050941394137 mang tên THAO MI M.

+ 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu OPPO, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

- Thu giữ của Vàng Chừ C:

+ 01 (một) điện thoại di động loại có bàn phím cứng, màu đen, nhãn hiệu Nokia, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

+ 02 (hai) khúc gỗ có đặc điểm, hình thù khác nhau được đánh số ký hiệu riêng là 248 và 249( có khối lượng 52 kg tương đương 0,0052m3) Quá trình điều tra xét thấy vật chứng của vụ án đã được chứng minh, làm rõ chủ sở hữu hợp pháp không cần tiếp tục tạm giữ Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã ra quyết định xử lý vật chứng sau:

Trả lại bị cáo Lăng Quốc T:

+ 01 căn cước công dân số: 026082003870, mang tên Lăng Quốc T, cấp ngày 25/5/2017.

+ 01 thẻ ngân hàng Quân đội MB bank mang tên Lăng Quốc T, số thẻ 4089041085431880.

Trả lại cho Nguyễn Văn T1:

+ 01 chiếc điện thoại di động màu vàng cát, nhãn hiệu SAMSUNG, mặt hình cảm ứng, mặt sau góc phải kính bị vỡ, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

+ 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn T1, cấp ngày 01/3/2011 do Công an tỉnh Vĩnh Phúc cấp.

+ 01 giấy phép lái xe số: 260100265170 mang tên Nguyễn Văn T1.

Trả lại cho Thào Mí M:

+ 01) chứng minh nhân dân số 073529289 mang tên Thào Mí M.

+ 01 Căn cước công dân số 002086010205, mang tên Thào Mí M.

- 01 thẻ ATM ngân hàng Agribank số 9704050941394137 mang tên THAO MI M.

+ 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu OPPO, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

Trả lại cho Vàng Chừ C:

+ 01 điện thoại di động loại có bàn phím cứng, màu đen, nhãn hiệu Nokia, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

Trả lại cho Nguyễn Văn S:

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 006765 mang tên Lăng Quốc T, biển số xe: 88C – 067.13 + 01 bảo hiểm tự nguyện số AD20/0151432.

+ 01 giấy chứng nhận kiểm định số 6603320.

+ 01 xe ô tô tải, màu trắng, biển kiểm soát 88C – 067.13, nhãn hiệu THACO, có số khung: 425AFC053184, số máy: 0F12F7F00430.

Số vật chứng thu giữ còn lại liên quan đến hành vi phạm tội hiện nay được chuyển theo vụ án gồm:

+ 248 khúc gỗ có đặc điểm, hình thù khác nhau, có khối lượng 8.493kg ( 01 khúc gỗ số 65 có khối lượng 26 kg cơ quan giám định đã sử dụng phục vụ công tác giám định không hoàn lại) + 03 bao tải màu xanh, bên trong chứa nhiều vụn gỗ, phần đầu được buộc kín.

80cm.

+ 14 bó gỗ tạp gồm nhiều thanh gỗ dạng hình trụ, đường kính 02cm, dài + 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen (mặt sau ghi chữ SAMSUNG), điện thoại cũ đã qua sử dụng của Lăng Quốc T + 01 chiếc điện thoại cảm ứng màu vàng cát (mặt sau ghi chữ SAMSUNG, mặt trước ghi chữ SAMSUNG), góc phải màn hình bị vỡ, giữa màn hình có vết nứt, điện thoại cũ đã qua sử dụng của Lăng Quốc T + 01 bằng lái xe số 250107001972 mang tên Lăng Quốc T.

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 19B8003414.

+ 01 giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô số 845/2017/GPVT-HH.

Đối với Vàng Chừ C và Thào Mí M có hành vi mua gom 8,495m3 gỗ Bách Xanh để bán cho một người tên Mai cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ người mua. Hành vi của Vàng Chừ C, Thào Mí M đã bị Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang xử phạt hành chính bằng hình phạt tiền theo quy định.

Tại bản cáo trạng số: 07/CT-VKSQB ngày 08/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Hà Giang, truy tố bị cáo Lăng Quốc T về tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” theo điểm k, m khoản 1 Điều 232 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như cáo trạng đã truy tố; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử Áp dụng điểm k, m khoản 1 Điều 232; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 50 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo bằng hình phạt tiền với số tiền từ 50.000.000,đ đến 60.000.000,đ về tội ‘‘Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản’’.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự đề nghị:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

+ 248(hai trăm bốn mươi tám) khúc gỗ có đặc điểm, hình thù khác nhau, có khối lượng 8.493kg.

+ 02 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAM SUNG đã qua sử dụng của Lăng Quốc Toản - Tịch thu tiêu hủy:

+ 03 (ba) bao tải màu xanh, bên trong chứa nhiều vụn gỗ, phần đầu được buộc kín.

+ 14 (mười bốn) bó gỗ tạp gồm nhiều thanh gỗ dạng hình trụ, đường kính 02cm, dài 80cm.

- Trả lại bị cáo Lăng Quốc T:

+ 01 (một) bằng lái xe số 250107001972 mang tên Lăng Quốc T.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 19B8003414.

+ 01 (một) giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô số 845/2017/GPVT-HH.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với quan điểm của đại diện viện kiểm sát và khi được nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q và Viện kiểm sát nhân dân huyện Q: Điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án.

[2]Về hành vi của bị cáo đã thể hiện: Tại phiên toà bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tối ngày 14/12/2022 bị cáo đã thuê xe ô tô để vận chuyển 8,443m3 gỗ Bách xanh, trên đường vận chuyển mang đi giao hàng thì bị bắt giữ.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ trong vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Vào tối ngày 14/12/2021 bị cáo Lăng Quốc T đã có hành vi vận chuyển trái phép 8,443m3gỗ Bách xanh thuộc nhóm IIA từ thôn G, xã C, huyện Q đi theo hướng về thành phố Hà Giang, đang trên đường đi thì bị bắt giữ. Cáo trạng của Viện Kiểm sát và bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, truy tố bị cáo theo điểm k,m khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng và lâm sản, đã vận chuyển trái phép gỗ thuộc danh mục bị cấm, gây mất trật tự trị án tại địa phương. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do vậy bị cáo có đủ khả năng để nhận thức việc vận chuyển trái phép gỗ Bách xanh bị pháp luật nghiêm cấm nhưng chỉ vì muốn có thu nhập mà không phải do lao động chính đáng, nên đã cố tình thực hiện, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Đối với bị cáo trước khi xét xử đã tự nguyện nộp số tiền 55.000.000 đồng để đảm bảo thi hành án, do vậy cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo cũng đảm bảo tính nghiêm khắc của hình phạt, đồng thời có tác dụng giáo dục, dăn đe, ngăn ngừa tội phạm.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, chưa có tiền án nhưng có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tự nguyện nộp tiền để đảm bảo thi hành án. Ý kiến của Viện Kiểm sát tại phiên toà về các tình tiết giảm nhẹ là có căn cứ và đúng qui định, về mức án đề nghị cũng đảm bảo tính giáo dục và có tính dăn đe, phòng ngừa chung.

[7] Những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội của kiểm sát viên tại phiên tòađược Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về hành vi của Vàng Chừ C và Thào Mí M có hành vi mua gom 8,495m3 gỗ Bách Xanh để bán cho một người tên M1 đã bị cơ quan hành chính nhà nước xử phạt hành chính, do vậy không xem xét. Đối với người mua gỗ tên M1 cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng: Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

+ 248 khúc gỗ có đặc điểm, hình thù khác nhau, có khối lượng 8.493kg.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 03 bao tải màu xanh, bên trong chứa nhiều vụn gỗ, phần đầu được buộc kín.

80cm.

+ 14 bó gỗ tạp gồm nhiều thanh gỗ dạng hình trụ, đường kính 02cm, dài - Trả lại bị cáo Lăng Quốc T:

+ 01 bằng lái xe số 250107001972 mang tên Lăng Quốc T.

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 19B8003414.

+ 01 giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô số 845/2017/GPVT-HH.

+ 02 điện thoại di động nhãn hiệu SAM SUNG đã qua sử dụng của Lăng Quốc T.

[10] Tại giai đoạn điều tra, xét thấy một số đồ vật, tài liệu đã thu giữ nhưng xác định không liên quan đến vụ án và việc xử lý các đồ vật tài liệu đó không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã trả lại cho chủ sở hữu đến nay không có yêu cầu gì thêm, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Lăng Quốc T phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm m, k khoản 1 Điều 232; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 35, khoản 2 Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lăng Quốc T 55.000.000,đ (năm mươi lăm triệu đồng) được khấu trừ vào số tiền bị cáo đã tạm nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q ngày 27/ 6 / 2022 theo biên lai số 51AA-21P 0002202.

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 45, điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng Hình sự: Huỷ bỏ biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Lăng Quốc T.

3. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

+ 248 khúc gỗ có đặc điểm, hình thù khác nhau, có khối lượng 8.493kg.

+ 02 điện thoại di động nhãn hiệu SAM SUNG của Lăng Quốc T.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 03 bao tải màu xanh, bên trong chứa nhiều vụn gỗ.

+ 14 bó gỗ tạp gồm nhiều thanh gỗ dạng hình trụ.

- Trả lại bị cáo Lăng Quốc T:

+ 01 bằng lái xe số 250107001972 mang tên Lăng Quốc T.

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 19B8003414.

+ 01 giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô số 845/2017/GPVT-HH.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao vật chứng, tài sản giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q, tỉnh Hà Giang với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Hà Giang ngày 08/6/2022.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, buộc bị cáo Lăng Quốc T phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm 5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quản Bạ - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về