Bản án về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ số 54/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 23/11/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 23 tháng 11 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung N, sinh năm 1995 tại huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: thôn H, xã B, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1969 và bà Võ Thị N, sinh năm 1974; vợ: Trương Thị Ái T, sinh năm 1998; con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

Đặng Thanh T, sinh năm 1994 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Vợ chồng ông Đặng Văn H, sinh năm 1949 và bà Trần Thị T, sinh năm 1953 (có mặt);

Trú tại: Thôn H, xã B, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. NLQ1, sinh năm 1990 (có mặt).

Trú tại: Thôn H, xã T, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

2. NLQ2, sinh năm 1969 (có mặt);

Trú tại: Thôn H, xã B, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

- Người làm chứng:

1. NLC1, sinh năm 1994 (vắng mặt);

2. NLC2, sinh năm 1996 (vắng mặt);

3. NLC3, sinh năm 1993 (vắng mặt).

Đồng trú tại: Thôn H, xã B, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

4. NLC4, sinh năm 1992 (có mặt);

5. NLC4, sinh năm 1991 (có mặt);

Đồng trú tại: Thôn H, xã T, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 01/05/2015, Nguyễn Trung N (có giấy phép lái xe theo quy định) và Đặng Thanh T nhậu cùng với một số người bạn trên cầu giao thông bắc qua tràn Đập dâng Văn Phong, thuộc thôn H, xã B, Tây Sơn, Bình Định. Đến khoảng 20h30 cùng ngày, do đã uống nhiều rượu bia nên T nói N chở về nhà trước. N điều khiển xe mô tô BKS 77H1 – X chở T đi về hướng đi từ bắc sang nam. Sau khi khởi động, N tăng tốc nhanh, khi đang tăng tốc ở số 2, vận tốc xe đã đạt khoảng 50 – 60km/h và đi được khoảng 40m. Lúc này, N phát hiện thấy xe mô tô BKS 77X3 – X do anh NLQ1 điều khiển hướng ngược chiều đến với vận tốc khoảng 40 - 50 km/h, cách khoảng 20,4 m. Cách sau xe NLQ1 khoảng 20 m có các anh NLC4 điều khiển xe mô tô chở NLC4 đều ở H– T– Tây Sơn – Bình Định. N xử lý đạp phanh gấp làm xe mô tô ngã phải và trượt từ phần đường phải sang phần đường trái rồi về lại phần đường phải. Anh T ngồi sau bị ngã sang trái của xe mô tô và cũng trượt theo xe mô tô 77H1- X một đoạn khoảng 15m. Lúc này, NLQ1 điều khiển xe mô tô hướng ngược chiều ở phần đường phải vừa đến, do khoảng cách quá gần không xử lý kịp đã để xe mô tô cán qua người của T (không xác định được vị trí cụ thể), xe mô tô của NLQ1 chao đảo nhưng không bị té ngã.

Hậu quả vụ tai nạn làm T bị thương, được N dùng xe mô tô 77H1-X chở đi cấp cứu nhưng đã chết tại bệnh viện Đa khoa khu vực Phú Phong, huyện Tây Sơn. Sau khi xảy ra tai nạn, NLQ1 điều khiển xe mô tô bỏ đi về nhà, đến ngày 22/05/2015 mới biết thông tin T chết và ra trình diện làm việc với cơ quan điều tra.

Kết luận giám định ngày 01/05/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định kết luận Đặng Thanh T bị vết thương vùng chẩm thái dương trái có vết lún xương sọ (3 x 6)cm, sờ có tiếng lạo xạo của xương. Vỡ xương vùng chẩm thái dương trái. Cổ lắc lư mọi hướng, gãy cột sống cổ. Nguyên nhân chết là do chấn thương sọ não kín và gãy cột sống cổ.

Dấu vết vụ tai nạn giao thông được mô tả tại biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi và bản ảnh.

Về dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 10.000.000 đồng, gia đình người bị hại đã có đơn bãi nại, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Vật chứng thu giữ: Xe mô tô 77H1- X đã trả lại cho chủ sở hữu. Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Bản cáo trạng số 43/CT – VKSTS ngày 12/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung N về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộtheo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung N phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

* Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Nguyễn Trung N mức án từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định.

* Về bồi thường thiệt hại: Các bên đã thỏa thuận bồi thường xong, đại diện hợp pháp gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã thấy hành vi sai trái của mình và rất hối hận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và Điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, thể hiện:

Khoảng 20h phút 30 phút ngày 01/05/2015, tại đoạn cầu đập dâng Văn Phong thuộc thôn H, xã B, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, sau khi đã uống rượu cùng bạn bè, bị cáo Nguyễn Trung N có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe mô tô 77H1- X chở Đặng Thanh T xuất phát với vận tốc nhanh, đột ngột, vận tốc khoảng 50 - 60km/h. Cách khoảng 20,4 m, phát hiện thấy xe mô tô 77X3- X do NLQ1 điều khiển xe hướng ngược chiều vừa đến, vận tốc khoảng 40 - 50 km/h, bị cáo N vẫn giữ nguyên tốc độ, xử lý phanh xe đột ngột nên đã để xe mô tô trượt ngã từ phần đường phải sang phần đường trái rồi trượt về lại phần đường phải, anh T ngồi sau cũng bị ngã trượt theo xe mô tô. Do khoảng cách quá gần và bất ngờ nên NLQ1 không xử lý kịp, đã để xe mô tô va tông vào người T. Hậu quả, T tử vong do chấn thương sọ não kín và gãy cột sống cổ. Nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn là do lỗi của N đã vi phạm Điều 12, Điều 17 Luật giao thông đường bộ. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Trung N đã phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộtheo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn truy tố là có căn cứ (bị cáo phạm tội vào ngày 01/5/2015, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định hình phạt nặng hơn nên theo quy định có lợi cho người phạm tội, cần áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999).

[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm và nghiêm trọng, không những gây thiệt hại đến tính mạng của anh Đặng Thanh T một cách trái pháp luật mà còn gây mất trật tự an toàn giao thông đường bộ ở địa phương. Do đó, cần xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[4.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại; đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo phạm tội lần đầu, là lao động chính trong gia đình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội với lỗi vô ý, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Các bên đã bồi thường xong, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

[6] Về án phí hình sự: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Trung N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

Căn cứ Điều 135; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung N phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung N 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 23/11/2022).

Giao bị cáo Nguyễn Trung N cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự năm 2010.

3. Về bồi thường thiệt hại: Đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Trung N phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo và các đương sự biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về