Bản án về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ số 12/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 12/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2023 với bị cáo:

Y Y Kbuôr sinh ngày 04/10/1991 tại huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn M, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Ê Đê; Nghề nghiệp: Làm nông. Con ông Y Y1 Niê và bà H L Kbuôr; Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cứ trú, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Y N Byă sinh năm: 1992 ã chết) Người đại diện hợp pháp (hàng thừa kề thứ nhất) của anh Y N: Ông Y B Niê sinh năm 1957. Nơi cư trú: Buôn H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Ông Y B có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Phạm Đình H sinh năm 1983. Nơi cư trú: Thôn NP, xã NB, thành phố TH, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

+ Ông Y D Ayun sinh năm 1973. Nơi cư trú: Buôn K, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

+ Y K Ađrơng (Ama Ph) sinh năm 1951. Nơi cư trú: số 29/4 đường N, phường TA, thành phố B, tỉnh ĐắkLắk. Vắng mặt.

+ Ông Y Y1 Niê sinh năm 1966. Nơi cư trú: Buôn M, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Ông Y Y1 có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

+ Ông Cao Phi Tr sinh năm 1983. Nơi cư trú: Phường 2, thành phố TH, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn Tr1 sinh năm 1984. Nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

+ Anh Y O Byă sinh năm 1995. Nơi cư trú: Buôn H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

+ Y S Ksơr sinh năm 1992. Nơi cư trú: Thôn 7, xã Co, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Vũ H sinh năm 1996. Nơi cư trú: Thôn 7, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Anh H có mặt tại phiên tòa.

+ Anh Y Th Byă sinh năm 1995. Nơi cư trú: Buôn H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Anh Y Th có mặt tại phiên tòa.

+ Anh Y H1 M’Drang sinh năm 1994. Nơi cư trú: Buôn M, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

+ H Nh Kbuôr sinh năm 1979. Nơi cư trú: Buôn M, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Y Y Kbuôr đã được học và cấp giấy phép hạng A1. Sáng ngày 14/6/2013, N Byă rủ Y đến thác Dray Knao thuộc địa phận xã Krông Jing, huyện M’Drắk để uống rượu. Y Y điều khiển xe môtô biển kiểm soát (BKS) 47L8-9506 đến thác. Khi đến nơi, có Y N và một số người bạn của Y N đang uống rượu, trong đó có Nguyễn Văn Tr1, Y O Byă, Y Th Byă, Y H M’Drang, Y S Ksơr, Nguyễn Vũ H. Cả nhóm uống rượu đến khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày thì tất cả cùng ra về. Y điều khiển xe mô tô BKS: 47L8-9506 chở N ngồi phía sau đi từ thác ra Quốc lộ 26 rồi lưu thông trên Quốc lộ 26 theo hướng từ tỉnh Đắk Lắk đi tỉnh Khánh Hòa, khi đến đoạn đường cong tại Km 67 + 300 Quốc lộ 26, đoạn thuộc địa phận xã Krông Jing, do sử dụng rượu, không làm chủ được tốc độ và không đảm bảo khoảng cách an toàn nên xe mô tô do Y điều khiển đã tông vào phần đuôi bên hông trái xe ô tô tải BKS: 78C – 017.89 do anh Phạm Đình Hiệp điều khiển đang lưu thông phía trước cùng chiều. Hậu quả Y bị thương nặng, N tử vong trên đường đi cấp cứu, xe mô tô bị hư hỏng.

Khám nghiệm hiện trường, phương tiện kết luận giám định xác định:

Hiện trường nơi xảy ra tai nạn tại km 67+300 quốc lộ 26, thuộc địa phận xã Krông Jing, huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk. Đây là đoạn đường cong, mặt đường thảm bên tông nhựa tương đối bằng phẳng, nơi rộng nhất là 12 mét (m), nơi hẹp nhất là 6,70m. Mép đường nhựa phía bên trái theo hướng Khánh Hòa đi Đắk Lắk có 02 đường nhánh, một đường đi vào buôn Tai, xã Krông Jing, huyện M’Drắk, một đường đi vào đường tránh trung tâm thị trấn M’Đrắk. Theo hướng Khánh Hòa đi Đắk Lắk, lề đường phía bên phải rộng 1,5m, lề đường phía bên trái rộng 1,3m. Chọn trụ điện số 15AB nằm phía bên trái đường theo hướng Khánh Hòa đi Đắk Lắk làm điểm mốc cố định và chọn mép đường bên phải theo hướng Khánh Hòa đi Đắk Lắk làm mép đường chuẩn để đo đến vị trí các phương tiện và dấu vết. Hiện trường thể hiện:

Sau tai nạn, xe mô tô BKS: 47L8-9506 nằm ngã nghiêng sang trái trên mặt đường phía bên phải theo hướng Đắk Lắk đi Khánh Hòa, đầu xe quay về hướng Khánh Hòa, đuôi xe quay về hướng Đắk Lắk. Xe ô tô tải BKS: 78C – 017.89 đỗ trên phần đường phía bên phải theo hướng Đắk Lắk đi Khánh Hòa. Đầu xe quay về hướng Khánh Hòa, đuôi xe quay về hướng Đắk Lắk. Căn cứ kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, thực nghiệm điều tra xác định được điểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện tương ứng trên mặt đường (điểm A). Điểm (A) nằm trên phần đường bên phải theo hướng Đắk Lắk đi Khánh Hoà.

Tại Bản kết luận pháp y số 242/KLPY, ngày 05/7/2013 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận nguyên nhân tử vong của Y N Byă là: Choáng đa thương phức tạp/TNGT.

Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 968/PY-TgT, ngày 27/9/2013 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Y Y Kbuôr bị đa thương, tụ máu não, gãy xương gò má, gãy thân xương đùi 2 bên, gãy đầu trên xương chày trái, tỷ lệ phần trăm thương tích của Y Y Kbuôr là 64%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 348/PYTT-PVPN, ngày 07/11/2013 của Viện giám định pháp y tâm thần Trung ương khu vực phía Nam kết luận: Về mặt y học: Trước, trong khi gây án: Đương sự không có bệnh tâm thần; Sau khi gây án đến nay: Đương sự bị hội chứng sau đụng dập não (F07.2- ICD.10). Về pháp luật: Tại thời điểm gây án: Đương sự đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Hiện nay: Đương sự chưa đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi để làm việc với cơ quan pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo Quyết định trưng cầu số 04/KLGĐ, ngày 11/01/2023 Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên kết luận tình trạng, tâm thần của Y Y Kbuôr tại thời điểm hiện tại: Kết luận về y học: Hiện tại Y Y Kbuôr bị bệnh hội chứng sau chấn động não, giai đoạn bệnh ổn định (F07.2-ICD10); Kết luận về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Hiện tại Y Y Kbuôr đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.

Tại Kết luận định giá tài sản số 34 ngày 28/9/2013 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M’Drắk kết luận: thiệt hại phụ tùng xe mô tô BKS:

47L8-9506 là 784.000 đồng.

Tổng kết hồ sơ bệnh án số 498 ngày 14/8/2013 của Bệnh viên đa khoa tỉnh Đắk Lắk thể hiện tại thời điểm gây tai nạn nồng độ rượu trong máu của Y là 21.3mmol/l, tương đương với 98,1504 miligam/100mililít máu, vượt quá mức cho phép quy định tại Khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

* Vật chứng tạm giữ:

+ 01 xe môtô BKS: 47L8-9506; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô.

+ 01 xe ôtô tải BKS: 78C – 017.89; 01 giấy chứng nhận kiểm định xe;

+ 01 giấy phép lái xe hạng A1 của Y Y Kbuôr;

+ 01 giấy phép lái xe hạng C của Phạm Đình H.

*Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 05/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk truy tố bị cáo Y Y Kbuôr về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999.

* Quá trình điều tra, Y không thừa nhận mình là người điều khiển xe mô tô BKS: 47L8-9506 gây tai nạn mà khẳng định người điều khiển xe dẫn đến tai nạn là Y N Byă. Quá trình xét hỏi tại phiên toà, Y khai: Buổi trưa ngày 14/6/2013, N Byă rủ Y đến thác Dray Knao để uống rượu. Y điều khiển xe môtô đến thác uống rượu cùng N và một số người bạn của N. Đến chiều cùng ngày thì tất cả đi về, Y đã say rượu, sau khi xảy ra tai nạn cho đến nay trí nhớ chưa ổn định nên Y không nhớ chính xác ai điều khiển xe. Gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại để khắc phục hậu quả. Sau khi hồi phục sức khỏe và nhận thức, Y đến xin lỗi gia đình bị hại.

* Quá trình điều tra, đại diện hợp pháp cho người bị hại đã nhận tiền bồi thường khắc phục hậu quả của bị cáo và có đơn yêu cầu bãi nại, không có ý kiến và yêu cầu gì.

* Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Y B Niê, ông Y D Ayun, ông Y K Ađrơng và ông Y Y1 Niê không yêu cầu gì.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Tuyên bố bị cáo Y Y Kbuôr phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 65 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Y từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng nhưng cho hưởng án treo.

+ Áp dụng khoản 2 Điều 47 BLHS 2015 và điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS): Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M’Đắk đa tra lai cho chủ sở hữu hợp pháp anh Phạm Đình H xe ô tô BKS 78C – 017.89 và giấy tờ liên quan đến phương tiện; trả lại xe mô tô BKS: 47L8 – 9506 và giấy tờ liên quan đến phương tiện cho chủ sở hữu hợp pháp của Y D Ayun. Trả lại 01 giấy phép lái xe hạng A1 cho bị can Y Y Kbuôr.

* Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của người bị hại và gia đình bị cáo đã tự thỏa thuận bồi thường, không yêu cầu gì thêm, vì vậy không đề cập giải quyết.

* Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M’Đrắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện huyện M’Đrắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 14/6/2013, bị cáo Y Y Kbuôr đã có giấy phép lái xe hạng A1, sau khi uống rượu cùng Y N Byă và các bạn của N, Y đã điều khiển xe mô tô BKS 47L8-9506 chở N ngồi phía sau, lưu thông trên Quốc lộ 26 theo hướng từ tỉnh Đắk Lắk đi tỉnh Khánh Hòa, khi đến đoạn đường cong tại Km 67 + 300 Quốc lộ 26, đoạn thuộc địa phận xã Krông Jing, do không làm chủ được tốc độ và không đảm bảo khoảng cách an toàn nên đã tông vào phần đuôi bên hông trái xe ô tô tải BKS 78C – 017.89 do anh Phạm Đình H điều khiển đang lưu thông phía trước cùng chiều. Hậu quả Y bị thương nặng, N chết.

Tại thời điểm gây tai nạn nồng độ rượu trong máu của bị cáo Y là 21.3mmol/l, tương đương với 98,1504 miligam/100mililít máu, vượt quá mức cho phép quy định tại Khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

Hành vi trên của bị cáo đã vi phạm vào các điều, khoản sau của Luật giao thông đường bộ năm 2008:

Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm 8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililit máu hoặc 0,25 miligam/lít khí thở.

Điều 12. Tốc độ và khoảng cách giữa các xe 1. Người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường và phải giữ một khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước xe của mình; ở nơi có biển báo “Cự ly tối thiểu giữa hai xe” phải giữ khoảng cách không nhỏ hơn số ghi trên biển báo.”” Bị cáo điều khiển xe cơ giới, sử dụng rượu vượt quá mước quan định, vi phạm quy tắc khoảng cách xe cùng chiều. Hành vi của bị cáo đã vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây hậu quả chết người. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào thời điểm BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung còn hiệu lực. Do đó cần áp dụng BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đối với bị cáo.

Hành vi vi phạm Luật giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng nêu trên của Y Y KBuôr đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. quy định:

“Điều 202: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

“b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;”.

[2.2] Xét tính chất vụ án, mức độ cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo phải nhận thức được việc điều khiển xe môtô khi tham gia giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ, người điều khiển xe phải tuân thủ quy định luật giao thông đường bộ. Do không tuân thủ quy tắc khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông trong máu có nồng độ cồn, không làm chủ tốc độ và giữ khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước xe của mình để xảy ra tai nạn. Hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm theo pháp luật.

[2.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, gia đình bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả; Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Đại diện hợp pháp của bị hại đã viết đơn bãi nại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS 2015.

Bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Sau khi xảy ra va chạm bị thương tích nặng phải điều trị một thời gian dài mới hồi phục khả năng nhận thức, sức khỏe hiện nay đã giảm sút nhiều. Bị cáo có nhân thân tốt, nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, hành vi phạm tội mang tính chất giản đơn. Do đó, cần áp dụng khoản 1 Điều 54 và Điều 65 BLHS năm 2015, để quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định đối với bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định một thời gian thử thách, cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

[2.4] Về trách nhiệm dân sự : Người đại diện hợp pháp cho bị hại và gia đình bị cáo đã thỏa thuận về vấn đề bồi thường thiệt hại, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[2.5] Về vật chứng:

- Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M’Đăk đa tra lai c ho chủ sở hữu hợp pháp anh Phạm Đình H xe ô tô BKS:78C – 017.89 và giấy tờ liên quan đến phương tiện, giấy phép lái xe; trả lại xe mô tô BKS: 47L8 – 9506 và giấy tờ liên quan đến phương tiện cho chủ sở hữu hợp pháp của Y D Ayun là phù hợp nên cần chấp nhận.

- Giấy phép lái xe hạng A1 của Y Y Kbuôr hiện đang lưu trữ trong hồ sơ vụ án cần trả lại cho bị cáo.

[2.6] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Y Y Kbuôr phạm tội “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009;

điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và khoản 1, 2 Điều 65 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Y Y Kbuôr 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (bốn) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 31/5/2023.

Giao bị cáo Y Y Kbuôr cho UBND xã Krông Jing, huyện M’Đrắk, tỉnh ĐắkLắk giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện giải quyết theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của BLHS.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 BLHS và điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M’Đăk đa tra lai cho chủ sở hữu hợp pháp anh Phạm Đình H xe ô tô BKS:78C – 017.89 và giấy tờ liên quan đến phương tiện, giấy phép lái xe; trả lại xe mô tô BKS: 47L8 – 9506 và giấy tờ liên quan đến phương tiện cho chủ sở hữu hợp pháp của Y D Ayun.

- Trả lại 01 giấy phép lái xe hạng A1 cho bị can Y Y Kbuôr (hiện đang lưu trữ trong hồ sơ vụ án)

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Y Y Kbuôr phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Thông báo quyền kháng cáo:

- Bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án Hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ số 12/2023/HS-ST

Số hiệu:12/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện M'Đrắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về