TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 573/2023/HS-PT NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM
Ngày 12 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 320/2023/TLPT- HS ngày 18 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn D do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D đối với bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HS-ST ngày 07/3/2023 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn D, sinh năm 1989.
ĐKHKTT: Thôn B, xã A, huyện B1, tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Không cố định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D2 và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không;
Danh chỉ bản số 000000764 lập ngày 24/10/2022 tại Công an quận B, thành phố H.
Bị cáo bị truy nã và bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/10/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố H; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/10/2018, tổ công tác Công an quận B trong lúc làm nhiệm vụ tại khu vực Khu công nghiệp Sài Đồng, phường Sài Đồng, quận B, thành phố H phát hiện 01 xe ô tô BKS: 90A-xxxxx dừng đỗ có biểu hiện nghi vấn nên tổ công tác đã tiến hành kiểm tra hành chính. Trên xe ô tô lúc này có hai người đàn ông nhân thân lai lịch như sau:
1. Họ và tên: Nguyễn Tiến D1, sinh năm 1986 (Lái xe) HKTT và chỗ ở: B – A – B1 – Hà Nam
2. Họ và tên: Nguyễn Văn C, sinh năm 1998 HKTT và chỗ ở: B – A – B1 – Hà Nam Qua kiểm tra, tổ công tác thu giữ trên xe ô tô 04 bao tải dứa màu xám bọc kín bên trong mỗi bao tải có 03 sản phẩm mỹ nghệ hình dáng giống rùa biển, 01 thùng giấy dán kín bên trong có 02 sản phẩm mỹ nghệ hình dáng giống rùa biển. C tự khai nhận 12 sản phẩm trong các bao tải dứa là con Vích được nhồi bông, trong thùng giấy là 02 cá thể Đồi mồi đã được nhồi bông, C đang đem đi bán cho khách thì bị kiểm tra bắt giữ. Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở để giải quyết.
Cơ quan điều tra đã tạm giữ: 01 điện thoại di động Samsung, 01 điện thoại di động Iphone 6, 02 điện thoại di động Nokia, 01 xe ô tô Mazda 3, BKS: 90A - xxxxx; 14 sản phẩm mỹ nghệ làm từ cá thể Vích, Đồi mồi.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định: C làm công nhân, thời gian nghỉ hay lên mạng tìm hiểu, đọc và xem các thông tin về rùa biển, Đồi mồi và Vích… nên hiểu biết có thể phân biệt các sản phẩm mỹ nghệ thật, giả làm từ các cá thể động vật trên. Mặt khác, do Nguyễn Văn D (sinh năm 1989, HKTT: B, A, B1, Hà Nam) là anh ruột của C có đầu mối lấy hàng nên bảo C tìm khách mua, D sẽ lấy hàng cho C bán. Do biết các sản phẩm mỹ nghệ làm từ các cá thể động vật trên hiếm, bán được giá cao nên dù biết việc buôn bán các sản phẩm đó là sai, trái pháp luật nhưng vì lợi nhuận nên C vẫn lên mạng Internet, vào các trang mạng rao bán các sản phẩm mỹ nghệ làm từ các cá thể Vích, Đồi mồi. Sau một thời gian rao bán, C đã bán được 01 sản phẩm mỹ nghệ làm từ con Vích cho một người phụ nữ tên Thủy với giá 4.000.000 đồng vào ngày 01/10/2018. Số tiền lãi, C ăn tiêu hết. Vài ngày sau, người phụ nữ tên Thủy lại liên hệ với C đặt mua 12 con Vích và 02 con Đồi mồi nhồi bông. C đồng ý và bỏ tiền tích góp của mình ra đưa cho D mua với giá 2.700.000 đồng/con. Sau khi có hàng, C đã liên hệ với người mua tên Thủy để hẹn và thống nhất giao hàng tại địa bàn quận B vào ngày 15/10/2018. C và D thống nhất D, D1 sẽ chở hàng lên cho C, sau đó C và D1 đi giao hàng cho khách. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 15/10/2018, C đi xe máy lên gửi tại bến xe Giáp Bát, sau đó đi xe ôm đến cửa hàng cafe nơi D và D1 chờ, sau đó D ngồi chờ còn D1, C đi xe ô tô BKS: 90A-xxxxx của D chở hàng đi bán cho người mua tên Thủy. Khi đang chờ giao hàng cho Thủy thì D1, C bị Cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ, lập biên bản đưa về trụ sở giải quyết.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Tiến D1 và Nguyễn Văn C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung trên.
Tại bản kết luận giám định số 850 ngày 05/11/2018 của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật kết luận 14 sản phẩm mỹ nghệ thu giữ của C, có 12 sản phẩm là 12 cá thể động vật (bỏ nội tạng và được sấy khô) là loài Vích và 02 sản phẩm là 02 cá thể động vật (bỏ nội tạng và được sấy khô) là loài Đồi mồi. Loài Vích và loài Đồi mồi đều thuộc phụ lục 1 Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ ban hành kèm theo Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ (được sửa đổi bởi Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ).
Nguyễn Tiến D1, Nguyễn Văn C đã bị xét xử về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 244 BLHS.
Đối với Nguyễn Văn D, D đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan điều tra tiến hành truy nã đối với D. Đến ngày 14/10/2022, Nguyễn Văn D bị bắt truy nã.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn D khai nhận: Khoảng đầu năm 2017, D ở nhà làm nghề sản xuất đồ gỗ, thường xuyên lên mạng Facebook để xem các sản phẩm đồ mỹ nghệ. D thấy nhiều người đăng bán các sản phẩm mỹ nghệ được làm từ cá thể của loài rùa biển đã chết (cá thể Vich, Đồi mồi), các sản phẩm này nhìn rất đẹp, có nhiều người mua nên D đã nảy sinh ý định mua các sản phẩm này để bán lại kiếm lời. D đã vào các bài đăng để lấy ảnh rồi đăng bán lại trên Facebook (đến nay D không nhớ tài khoản Facebook của mình là gì, không nhớ các trang đã vào xem). Khoảng đầu tháng 10/2018, C điện thoại cho D bảo đang có người hỏi mua 14 sản phẩm mỹ nghệ được làm từ 12 cá thể Vích và 02 cá thể Đồi mồi, D bảo C chờ để D hỏi. D vào bài đăng của người giao bán nên đã gọi điện hỏi mua của anh ta 14 sản phẩm mỹ nghệ như yêu cầu, người bán báo có hàng và giá 1.500.000 đồng/sản phẩm, cước vận chuyển là 300.000 đồng/sản phẩm, khi nào nhận hàng thì trả tiền, D bảo C và đồng ý mua, hẹn giao hàng vào ngày 14/10/2018 tại đường cao tốc Ninh Bình – Hà Nam để D chuyển cho C vào ngày 15/10/2018. Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 14/10/2018, có một người đàn ông gọi điện cho D báo ra nhận hàng, D ra đường cao tốc Ninh Bình – Hà Nam để nhận hàng. Khi ra đến nơi D gặp 01 người đàn ông đi xe khách, anh ta đưa cho D 03 thùng giấy bọc kín và D trả cho anh ta 19.200.000 đồng tiền mặt (trong đó có 15.000.000 đồng là tiền hàng và 4.200.000 đồng là tiền cước vận chuyển), còn lại 6.000.000 đồng D dự định khi nào bán được hàng cho C thì mới trả nốt. Sau khi nhận hàng, D chở về nhà, mở ra xem thì thấy bên trong có 04 bao tải dứa và 01 thùng giấy nhỏ (trong mỗi bao tải dứa có 03 sản phẩm mỹ nghệ được làm từ 03 cá thể Vích đã chết và trong thùng giấy nhỏ có 02 sản phẩm mỹ nghệ được làm từ 02 cá thể Đồi mồi đã chết). Do mới mua xe ô tô BKS: 90A-xxxxx, tay lái còn non không dám đi xa nên D gọi điện thoại cho D1 để thuê D1 lái xe của D chở hàng lên H giao cho C đem đi bán cho khách, D1 đồng ý. Khoảng 06 giờ 30 ngày 15/10/2018, D tự bê toàn bộ 14 sản phẩm mỹ nghệ trên để vào xe ô tô của D, rồi D1 lái xe chở D cùng toàn bộ số hàng lên H giao cho C (trong quá trình chở D đã nói cho D1 biết hàng hóa là rùa biển nhồi bông đem bán cho khách). Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, D, D1 lên đến H và gặp C tại một quán cafe trên phố Lĩnh Nam (D không nhớ địa chỉ cụ thể); sau đó, D giao xe cho D1 để D1 chở C cùng toàn bộ số hàng đi giao cho khách của C (D không biết C bán lại cho ai, giá bao nhiêu tiền, giao hàng ở đâu, như thế nào).
Về nhận thức: Qua xem tivi, các bài đăng trên mạng Facebook và trực tiếp xem kiểm tra khi nhận hàng nên D biết 14 sản phẩm mỹ nghệ D mua và bán lại cho C nêu trên được làm từ 12 cá thể Vich đã chết và 02 cá thể Đồi mồi đã chết (được sấy khô). Ngoài ra, D còn biết phân biệt cá thể Vich và Đồi mồi qua hình dáng mai lưng.
Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 01/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố H truy tố Nguyễn Văn D về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HS-ST ngày 07/3/2023 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 244; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 10 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2022.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/3/2023, bị cáo Nguyễn Văn D kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn D thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H nhận định:
Về hình thức kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Văn D tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 10 năm tù về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” là phù hợp, tương xứng với nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hậu quả xảy ra và hành vi phạm tội của bị cáo.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo đã có hành vi cứu giúp người khác bị tai nạn giao thông và tài liệu thể hiện bị cáo có người thân là người có công với cách mạng nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Cụ thể, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D và sửa quyết định của bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 244; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 08 năm 06 tháng tù – 09 năm tù về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 14/10/2022.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, được Hội đồng xét xử chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]Căn cứ vào lời khai của bị cáo Nguyễn Văn D, vật chứng thu được, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 15/10/2018, tại khu vực Khu công nghiệp Sài Đồng, phường Sài Đồng, quận B, thành phố H, Nguyễn Văn D cùng hai đối tượng khác (Nguyễn Tiến D1 và Nguyễn Văn C) có hành vi buôn bán trái phép 12 cá thể Vích (đã bỏ nội tạng và được sấy khô) và 02 cá thể Đồi mồi (đã bỏ nội tạng và được sấy khô) đều thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ thì bị phát hiện.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” với tình tiết “Số lượng động vật hoặc bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống của 08 cá thể lớp thú trở lên, 11 cá thể lớp chim, bò sát trở lên hoặc 16 cá thể động vật lớp khác trở lên quy định tại điểm a khoản 1 Điều này”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; bị cáo đã xâm phạm đến quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm, xâm phạm đến quy định của Nhà nước trong việc bảo vệ hệ cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học của các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm. Bản thân bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi nên vẫn cố ý phạm tội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật để răn đe và phòng ngừa chung.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phù hợp, tuy nhiên sau khi phạm tội, bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Toà án cấp sơ thẩm xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn D xuất trình tài liệu thể hiện bị cáo có người thân (ông, bà ngoại) là người có công với cách mạng, bị cáo đã có hành vi cứu giúp người khác bị tai nạn giao thông (có xác nhận của Công an phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, thành phố H); mặt khác, trong vụ án này, bị cáo và Nguyễn Văn C là hai anh em ruột nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò của bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo và áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[4]Hội đồng xét xử sửa quyết định của bản án sơ thẩm nên bị cáo Nguyễn Văn D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
[5]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D và sửa Quyết định của bản án sơ thẩm:
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 244; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 54; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 08 (Tám) năm tù về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 14/10/2022.
2. Về án phí: áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 12/7/2023.
Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 573/2023/HS-PT
Số hiệu: | 573/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về