Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sốp Cộp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2022/TLST- HS ngày 25 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54 /2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Vì Văn T, sinh ngày 19/9/1984, tại huyện S, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản C, xã M, huyện S , tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Dân tộc: Lào; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; là Đảng viên, đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng theo Quyết định đình chỉ sinh hoạt số 18a-QĐ/UBKTHU ngày 20/5/2022 của Ủy ban kiểm tra Huyện ủy Sốp Cộp; con ông Vì Văn K (đã chết), con bà Lò Thị L; vợ: Lò Thị P ; có 03 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2022 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Thị D, tên gọi khác: Không, sinh ngày 25/3/1986, tại huyện S , tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản M , xã M1, huyện S , tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Dân tộc: Lào; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lò Văn B (đã chết), con bà Lường Thị P ; có chồng là: Nguyễn Văn T , có 2 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2022 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

3. Lò Văn T1, tên gọi khác: Không, sinh ngày 05/12/1981, tại huyện S , tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản N , xã M, huyện S , tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Lào; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lò Văn P , con bà Quàng Thị M ; vợ là: Lường Thị T; có 2 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2022 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

4.Cầm Thị Hoài M , tên gọi khác: Không, sinh ngày 15/8/1985, tại huyện S, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký hộ khẩu: Tiểu khu 2 thị trấn P , huyện P1, tỉnh Sơn 1 La; Nơi cư trú: Bản H , xã S , huyện S , tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bạc Cầm P , con bà Lò Thị M g, chồng là: Cầm Văn V ; con: có 02 con, hiện đang trú tại tiểu khu 2 thị trấn P, huyện P, tỉnh Sơn La; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2022 cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Lò Văn S , tên gọi khác: Không, sinh năm 1991, Nơi cư trú: Bản C, xã M , huyện S , tỉnh Sơn La; Có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Thị P , tên gọi khác: Không, sinh năm 1985, Nơi cư trú: Bản C , xã M , huyện S , tỉnh Sơn La; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 10 tháng 5 năm 2022, Công an huyện Sốp Cộp, kết hợp với Công an xã Sốp Cộp, kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ Pắk Nặm, bản Sốp Nặm, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp phát hiện trên nóc tủ lạnh, tại phòng lễ tân có 01 hộp bìa cát tông loại thùng mì tôm, nhãn hiệu Hảo Hảo được dán kín, kiểm tra bên trong phát hiện 01 túi nilon màu trắng chứa 04 chân động vật màu đen nghi là chân Gấu.

Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp làm việc với chị Vì Thị T chủ nhà nghỉ, được biết hộp bìa cát tông trên là của hai người đàn ông đi xe ô tô bán tải màu trắng gửi, để giao cho một người khách đang nghỉ tại phòng 201. Người này xin số điện thoại của T rồi đi về hướng trung tâm huyện, sau có gọi điện thoại gọi cho T có số thuê bao 0987020023 nói là nếu người khách ở phong nghỉ 201 trả tiền trọ thì thu hộ 6.000.000 đồng, sau đó người đàn ông ở phòng 201 đến mở hộp cát tông xem xong, rồi lại dùng băng dính dán lại sau đó đi đâu không rõ. Tổ công tác lập biên bản và thu giữ 01 hộp bìa cát tông bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa 04 chân động vật màu đen nghi là chân Gấu.

Tổ công tác đã truy tìm được người đã gửi hộp cát tông tại nhà nghỉ là Vì Văn T. Tại cơ quan Điều tra Công an huyện Sốp Cộp T khai nhận toàn bộ hành vi đem 4 chân Gấu đi bán cho một người không rõ họ tên Bình ở Phú Thọ. Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Sốp Cộp đã ra lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Vì Văn T , tiến hành khám nghiệm hiện trường, xác định vị trí T để hộp cát tông chứa 04 chân động vật màu đen, tại nhà nghỉ Pắt Nặm thuộc xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp.

Cùng ngày 10/5/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp cho T nhận dạng hộp cát tông gửi tại nhà nghỉ Pắk Nặm, đồng thời tiến hành mở niêm phong cân tịnh vật chứng là 04 chân cá thể động vật nghi là chân Gấu có khối lượng 4,8kg.

Ngày 11/5/2022 cơ quan điều tra công an huyện Sốp Cộp đã trưng cầu Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, để giám định 04 chân động vật đã thu giữ thuộc loài động vật nào, có thuộc loại động vật nguy cấp, quý, hiếm không.

Tại bản kết luận giám định số 623/STTNSV ngày 16/5/2022 của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam; kết luận:

- Xác định tên loài động vật: 04 chân động vật là chân của loài Gấu Ngựa, có tên khoa học Ursus thibetanus.

- Xác định tình trạng bảo tồn theo quy định của pháp luật: Loài Gấu ngựa (Ursus thibetanus) có tên trong nhóm IB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành kèm theo Nghị định 84/2021/NĐ-CP, ngày 22/9/2021 của Chính phủ. Loài Gấu ngựa (Ursus thibetanus) có tên trong Phụ lục I, Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ ban hành kèm theo Nghị định 64/2019/NĐ-CP, ngày 16/7/2019 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 44/CT-VKSSC ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La truy tố Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn T1, Cầm Thị Hoài M , về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật hình sự.

Đối với người đàn ông tự giới thiệu tên Bình ở tỉnh Phú Thọ hẹn mua chân Gấu có liên lạc với T qua số điện thoại 0358334817, T chưa gặp mặt, nên không biết họ, tên, địa chỉ, qua xác minh tại Tập đoàn Công Nghiệp - Viễn thông quân đội Sơn La, nhưng không có kết quả, nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án.

Đối với Tòng Văn Quyết đi xe cùng T để giao hộp cát tông chứa 04 chân Gấu tại nhà nghỉ Pắk Nặm và Vì Thị T là chủ nhà nghỉ cũng đồng ý nhận hộp cát tông chứa 04 chân Gấu để gửi cho khách đang thuê phòng tại nhà nghỉ, tuy nhiên Quyết và T không biết bên trong hộp cát tông là chân Gấu, nên không phải là đồng phạm trong vụ án.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận:

Lò Văn T1 khai nhận: Tháng 11/2021 bị cáo đang ở nhà thì có một người gọi điện thoại đến hỏi bị cáo có 01 bộ 04 chân vừa bắn đuọc Gấu có mua không, bị cáo liền điện cho Lò Thị D , D nói bán 500.000 đồng/1kg thì mua, bị cáo điện lại cho người bán sẽ mua với giá 500.000 đồng trên 1kg, người Mông đồng ý bán, bị cáo điện cho D đến ngay khu vực đường biên giới thuộc bản Nà Khi, Mường Lạn, huyện Sốp Cộp để mua. D bảo bị cáo ở nhà chờ và điện cho Vì Văn T rủ T cùng đi mua, T đồng ý và điều khiển xe ô tô bán tải BKS 26C- 103.84 của gia đình đón D và bị cáo cùng đi và đem theo 01 chiếc cân đồng hồ lò xo loại 5kg của gia đình, đồng thời chỉ đường cho T điều khiển xe đến địa điểm đã hẹn. Đến điểm hẹn, T ngồi trên xe còn bị cáo và D xuống xe cân 04 chân Gấu của người Mông có khối lượng 4,8kg, Dân lấy 2.400.000 đồng trả cho người Mông, bị cáo cầm 04 chân Gấu và 01 chiếc cân cho vào trong 01 bao tải dứa để lên xe bên phụ rồi cùng nhau đi về. Trên đường về Thuận trả cho bị cáo 1.000.000 đồng tiền công dẫn đường.

Vì Văn T khai: Tháng 11/2021 Lò Thị D điện thoại cho bị cáo rủ đi mua chân Gấu, bị cáo điều khiển xe ô tô của gia đình trở D và T cùng đi mua 4 chân Gấu của một người không quen biết với số tiền 2.400.000 đồng, sau khi mua được bị cáo và D đem về cất giấu trong tủ lạnh nhà dân để bảo quản, khi nào bán được sẽ lấy tiền chia nhau. Đến tháng 2/2022 do chưa tìm được người, nên bị cáo sang nhà D lấy 4 chân Gấu đem về cất giấu trong tủ lạnh của nhà bị cáo không nói cho ai biết. Đến ngày 8/5/2022 bị cáo mang 04 chân Gấu đến quán ăn của chị Cầm Thị Hoài M là bạn gửi trong tủ lạnh, nếu có ai hỏi mua thì bán hộ. Đến ngày 9/5/2022 có một người tự giới thiệu tên Bình ở Phú Thọ hỏi mua và có hẹn đến trung tâm huyện Sốp Cộp, để giao dịch mua bán. Khoảng 6 giờ ngày 10/5/2022 bị cáo đã hẹn với Bình và nhờ M trao đổi giao dịch với Bình qua điện thoại của T để thống nhất giá bán và hẹn địa điểm giao chân Gấu, đến 12 giờ bị cáo mang 04 chân Gấu đến gửi phòng lễ tân của nhà nghỉ Pắk Nặm, để người tên Bình đến nhận chân Gấu, quá trình trao đổi chưa giao được chân Gấu cho Bình thì bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện, bị bắt tạm giam và bị khởi tố.

Lò Thị D khai nhận: Tháng 11 năm 2021 Lò Văn T1 gọi điện hỏi có mua chân Gấu không, bị cáo bảo T1 hỏi nếu bán 500.000 đồng/1kg thì sẽ mua, sau đó bị cáo đã rủ Vì Văn T cùng đi mua và nhờ T1 dẫn đường, bị cáo cân 04 chân Gấu có khối lượng là 4,8kg trả số tiền là 2.400.000 đồng, sau khi mua xong T đã trả công dẫn đường cho T1 1.000.000 đồng. Sau đó Dân cất 4 chân Gấu vào trong tủ lạnh của nhà để bảo quản và tìm người mua. Đến tháng 2/2022 T đến nhà bị cáo lấy 4 chân Gấu đem đi bán, khi nào bán được thì sẽ thanh toán tiền mua bán chân Gấu với nhau Cầm Thị Hoài M khai nhận: Bị cáo và Vì Văn T là bạn bè quen biết, ngày 8/5/2022 T có mang đến quán gửi 04 chân gấu trong chiếc tủ lạnh và nói sau sẽ trả tiền điện cho. Đến khoảng 6 giờ ngày 10/5/2022 T gọi cho bị cáo đặt một mâm cơm và nói sẽ mang chân gấu đi bán. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày T điều khiển xe ô tô BKS 26C-10384 đến quán, cùng đi với T là Tòng Văn Quyết là bạn T , Quyết ngồi ở bàn uống nước T mở tủ lấy lạnh lấy 4 chân Gấu ra đặt trên bàn chế biến thức ăn và bảo bị cáo đóng gói giúp, bị cáo dùng hộp bìa cát tông loại mì tôm Hảo Hảo, cho túi nilon chứa 04 chân Gấu vào đóng lại dùng băng dính dán kín. T dùng điện thoại gọi cho người tên Bình và đưa điện thoại cho bị cáo, nhờ nói chuyện giúp để thống nhất giá bán và địa điểm giao chân Gấu, khi bị cáo nói chuyện với Bình thì T đứng cạnh nghe rõ về việc Bình đang thuê phòng số 201 tại nhà nghỉ Pắk Nặm thuộc xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp và bảo T đem chân Gấu tới nhà nghỉ Pắk Nặm. Sau đó bị cáo bê hộp cắt tông chứa 04 chân Gấu cho vào xe cho Thuận và dặn Thuận giao xong chân Gấu thì xin số điện thoại của lễ tân nhà nghỉ, để thông tin với lễ tân.

Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã tạm giữ của Vì Văn T , 01 hộp bìa cát tông chứa 04 chân gấu màu đen, 01 chiếc điện thoại Nokia, 01 chiếc xe ô tô bản tải nhãn hiệu Ford Rangger màu sơn trắng, số máy PA4T1199138, số Khung: MNCLMFF80FWW293677 Biển kiểm soát 26C-103.84; Tạm giữ của Lò Thị D , 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO Y21S, màn hình cảm ứng, màu đen xám; số IMEI: 3406103716001 ZA, có gắn 01 thẻ sim số thuê bao 0983711985; Tạm giữ của Lò Văn T1, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIONE, loại bàn phím màu đen xám màu đen, số IMEI : 865552025401187, có gắn 01 sim số thuê bao 0353338313; Tạm giữ của Cầm Thị Hoài Mi, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO RENO2 F, màn hình cảm ứng màu xanh đen, số IMEL 1: 86953044558630, số IMEL 2:869563044558622, có gắn 01 sim số thuê bao 0972783685.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Lò Thị P trình bày: Chiếc xe ô tô bán tải Biển kiểm soát 26C-103.84 bị cơ quan Điều tra tạm giữ ngày 10/5/2022 đối với Vì Văn T là tài sản chung của gia đình chị, khi T mang xe đi mua, bán chân Gấu, chị không biết, không có liên quan, đề nghị được xin lại tài sản.

Lò Văn S trình bày: (Sơn là em vợ của bị cáo T ) Chiếc xe ô tô bị cơ quan điều tra tạm giữ ngày 10/5/2022 đối với Vì Văn T là tài sản mà anh Sơn có góp 20.000.000 đồng cùng T để mua và sử dụng chung, anh S không liên quan đến hành vi mua bán chân Gấu, có đề nghị được trả lại tài sản.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi trình bầy luận tội, vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố, các bị cáo Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn T1, Cầm Thị Hoài M phạm tội: Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Vì Văn T từ 24 đến 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, tuyên thời gian thử thách.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt Lò Thị D , từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, tuyên thời gian thử thách Xử phạt Lò Văn T1, từ 18 đến 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, tuyên thời gian thử thách.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s, v khoản 1 Điều 51, Điều 58, khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Cầm Thị Hoài M từ 16 đến 22 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, tuyên thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Đối với thùng bìa cát tông chứa 01 túi nilon màu trắng + 04 chân Gấu ngựa là vật chứng khó bảo quản. Ngày 02/8/2022 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La có Quyết định xử lý vật chứng, bằng biện pháp tiêu hủy là có căn cứ.

- Tịch thu những vật chứng sau để nộp vào ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh đen; 01 điện thoại GIONEE màu đen; 01 điện thoại VIVO Y21 S màn hình cảm ứng; 01 chiếc cân đồng hồ lò xo, nhãn hiệu Nhơn hòa loại 05kg màu xanh.

- Truy thu số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo Lò Văn T1, để nộp ngân sách Nhà nước.

- Trả cho Cầm Thị Hoài M 01 điện thoại OPPO RENO2 F màn hình cảm ứng, có số thuê bao: 0972783685.

- Trả lại cho Lò Thị P và Lò Văn S , 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Ford Rangger màu sơn trắng, số máy PA4T1199138, số Khung: MNCLMFF80FWW293677 Biển kiểm soát 26C-103.84.

Về án phí: Các bị cáo T , D , T1 được miễn án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Mi phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tháng 11/2021 bị cáo Lò Văn T1 , Lò Thị D , Vì Văn T đã mua 04 chân Gấu ngựa của một người không quen biết với số tiền 2.400.000 đồng. Ngày 8/5/2022 T đem 4 chân Gấu đến gửi trong tủ lạnh ở quán ăn của Cầm Thị Hoài M nhờ tìm người bán giúp. Đến ngày 9/5/2022 có một người tự giới thiệu tên Bình ở Phú Thọ hỏi mua và có hẹn đến trung tâm huyện Sốp Cộp, để giao dịch mua bán với T .

Ngày 10/5/2022 bị cáo T đã hẹn với Bình để bán chân Gấu cho Bình với giá 1.200.000 đồng/1kg tổng số tiền là 6.000.000 đồng, đồng thời giao chân Gấu tại nhà nghỉ Pắk Nặm xã Sốp Cộp, trước khi đem đi bán T nhờ Mi đóng gói giúp và trao đổi với người đàn ông tên là Bình về giá bán, địa điểm giao chân Gấu. Quá trình trao đổi chưa giao được chân Gấu cho Bình thì bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện và thu giữ vật chứng.

Hành vi của phạm tội của các bị cáo được chứng minh như:

Lời khai nhận của các bị cáo, biên bản thu giữ vật chứng, Biên bản khám nghiệm hiện trường, Bản kết luận giám định số 623 ngày 16/5/2022, Kết luận số 652 ngày 20/5/2022 của Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, vật chứng vụ án là 4,8kg chân Gấu ngựa.

Như vậy từ những căn cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn Thong, Cầm Thị Hoài M phạm tội: Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật hình sự, có hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố các bị cáo về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm theo điểm b khoản 1 Điều 244 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Ban hành kèm theo Nghị định 84/2021/NĐ-CP, ngày 22/9/2021 của Chính phủ và Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ) quy định trong việc bảo vệ sự cân bằng sinh thái, đa dạng sinh học của các loài động vật hoang dã, quý, hiếm trong môi trường sinh thái; Việc đưa các bị cáo ra xét xử là cần thiết nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo Lò Thị D và Vì Văn T đóng vai trò chính, là người chủ động và tham gia tích cực trong việc mua bán chân Gấu, nên phải chịu hình phạt cao hơn các bị cáo khác.

Bị cáo Lò Văn T1 tuy không trực tiếp và bỏ tiền mua nhưng đã tích cực giúp sức cho bị cáo Dân và Thuận trong việc mua bán, nên chịu hình phạt nhẹ hơn hai bị cáo T và D .

Bị cáo Cầm Thị Hoài M , cho Vì Văn T , gửi chân Gấu trong tủ lạnh và nói chuyện với người tên Bình về việc mua bán chân Gấu là hành vi giúp sức tạo điều kiện cho bị cáo T trong việc trao đổi mua bán là đồng phạm.

Trong vụ án, các bị cáo thực hiện tội phạm với tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ, mua bán nhỏ lẻ, mục đích mua để bán lại kiếm lời nhằm để cải thiện cuộc sống khó khăn.

Nơi cư trú của các bị cáo đa số có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, là dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, việc tuyên truyền của chính quyền địa phương hiệu quả chưa cao nên nhận thức, phân biệt các loại động vật nguy cấp, quý hiếm và loài động vật khác còn hạn chế. Do vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà cho các bị cáo cải tạo ngoài môi trường xã hội bình thường có sự giám sát của gia đình và chính quyền địa phương cũng đủ để giáo dục và cải tạo các bị cáo.

[5] Về nhân thân: Trước khi phạm tội các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội, chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân nơi cư trú, có đề nghị cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương.

[6] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo:

Vì Văn T có ông ngoại là Lò Văn May Minh, được chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba, bố vợ là ông Lò Văn Anh được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, bị cáo có ông nội, bà nội tham ghia dân công hỏa tuyến, bị cáo hợp tác khai báo đồng phạm khác trong quá trình điều tra, nên được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Lò Văn T1, có bố đẻ được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, sau khi phạm tội khai báo thành khẩn nên được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Lò Thị D , có bố, mẹ đẻ được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, hạng Nhất, sau khi phạm tội khai báo thành khẩn nên được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Cầm Thị Hoài M , sau khi phạm tội khai báo thành khẩn và bản thân có nhiều thành tích được tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen trong công tác tình nguyện và phong trào thanh niên, nên được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, v khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt chính: Các bị cáo đều có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nhân thân, lý lịch, nơi cư trú rõ ràng, do đó khi lượng hình có xem xét để giảm nhẹ hình phạt, tuy vẫn áp dụng hình phạt tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách phù hợp và giao các bị cáo cho chính quyền nơi cư trú giám sát giáo dục là đủ để răn đe và phòng ngừa chung.

[7] Đối với người đã trực tiếp săn bắt con Gấu ngựa và bán 04 chân Gấu cho các bị cáo là đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý về hình sự, nhưng không xác định được đối tượng, do đó chưa có căn cứ để xử lý ở vụ án này; đề nghị cơ quan Điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La tiếp tục điều tra xác minh làm rõ sẽ xử lý ở vụ án khác.

Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Lò Thị P vợ của bị cáo T và Lò Văn S em vợ của bị cáo T , qua xác minh chị P và S không có liên quan đến hành vi mua bán chân Gấu, chiếc xe ô tô Biển kiểm soát 26C-103.84 hiện cơ quan điều tra đã tạm giữ là tài sản chung của T , P và S , xét thấy cần trả lại cho các chủ sở hữu.

[8] Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c, khoản 2, điểm a, d khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với thùng bìa cát tông màu vàng bên trong chứa 01 túi nilon màu trắng chứa 04 chân gấu ngựa là vật chứng khó bảo quản. Ngày 02/8/2021 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La có Quyết định xử lý vật chứng, bằng biện pháp tiêu hủy là có căn cứ.

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA, loại bàn phím, màu xanh, đen số IMEI 1: 551639341752178 , số IMEI 2: 351639343752176, có gắn 01 sim số thuê bao 0987020023, vỏ ốp lưng bị mất 1 miếng ở chân sạc điện thoại của Vì Văn T ; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO Y21S, màn hình cảm ứng, màu đen xám; số IMEI: 3406103716001 ZA, có gắn 01 thẻ sim số thuê bao 0983711985 của Lò Thị D ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIONE, loại bàn phím màu đen xám, số IMEI : 865552025401187, có gắn 01 sim số thuê bao 0353338313, 01 chiếc cân đồng hồ lò xo, nhãn hiệu Nhơn hòa loại 05kg màu xanh của Lò Văn T1; Xét thấy 03 chiếc điện thoại và chiếc cân cùng có liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

- Chiếc xe ô tô bán tải nhãn hiệu Ford Rangger màu sơn trắng, số máy PA4T1199138, số Khung: MNCLMFF80FWW293677 là tài sản chung của gia định chị P và anh Lò Văn S , xét thấy không có liên quan đến hành vi tội phạm cần trả lại cho các chủ sở hữu.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO RENO2 F, màn hình cảm ứng màu xanh đen, số IMEL 1: 86953044558630, số IMEL 2:869563044558622, có gắn 01 sim số thuê bao 0972783685, mặt sau điện thoại có nhiều vết rạn, nứt của Cầm Thị Hoài M , xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho chủ sở hữu.

- Số tiền 1.000.000đ do bị cáo T trả cho bị cáo T1 là tiền có liên quan đến hành vi phạm tội mà có, xét cần truy thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

[9] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo phạm tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, ngoài hình phạt chính các bị cáo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 điều 244 của Bộ luật hình sự; Xét thấy gia đình các bị cáo làm nghề nông nghiệp, là hộ nghèo, không có điều kiện về kinh tế, nên không áp dụng.

[10] Về án phí: Nơi cư trú của bị cáo Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn T1 có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Cần miễn khoản án phí hình sự cho bị cáo; bị cáo Cầm Thị M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật hình sự; tuyên bố các bị cáo Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn T1, Cầm Thị Hoài M phạm tội: Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.

1. Về hình phạt chính: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 58, khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo:

- Vì Văn T , 24 (hai mươi bốn ) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng, tính từ ngày tuyên án (20/9/2022).

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 58, khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt Lò Thị D , 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng, tính từ ngày tuyên án (20/9/2022).

+ Xử phạt Lò Văn T1, 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng, tính từ ngày tuyên án (20/9/2022) .

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s, v khoản 1 Điều 51, Điều 58 khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Cầm Thị Hoài M 16 (mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 32 tháng, tính từ ngày tuyên án (20/9/2022).

Căn cứ Điều 299, khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên trả tự do cho các bị cáo Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn T1, Cầm Thị Hoài M ngay tại phiên tòa.

Giao bị cáo Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn T1 cho Ủy ban nhân dân xã Mường Lạn huyện Sốp Cộp quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách; Giao bị cáo Cầm Thị Hoài M cho Ủy ban nhân dân xã S , huyện Sốp Cộp quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 luật thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này”.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, quy định tại khoản 4 Điều 244 của Bộ luật hình sự.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Chấp nhận cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp ra quyết định tiêu hủy thùng bìa cát tông màu vàng bên trong có chứa 01 túi ni lon màu trắng chứa 04 chân Gấu ngựa.

- Tịch thu những vật chứng sau để nộp vào ngân sách Nhà nước:

+ Tịch thu của bị cáo Vì Văn T , 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, loại bàn phím, màu xanh- đen, số IMEI 1: 551639341752178 , số IMEI 2: 351639343752176, có gắn 01 sim số thuê bao 0987020023, vỏ ốp lưng bị mất 1 miếng ở chân sạc điện thoại , điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu của bị cáo Lò Văn T1, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIONE, loại bàn phím màu đen xám màu đen, số IMEI : 865552025401187, có gắn 01 sim số thuê bao 0353338313, điện thoại đã cũ, qua sử dụng và 01 chiếc cân đồng hồ lò xo nhãn hiệu Nhơn hòa loại 05kg màu xanh.

+ Tịch thu của bị cáo Lò Thị D , 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO Y21S, màn hình cảm ứng, màu đen xám; số IMEI: 3406103716001 ZA, có gắn 01 thẻ sim số thuê bao 0983711985, điện thoại đã cũ qua sử dụng.

- Truy thu của bị cáo: Lò Văn T1 1.000.000 đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Trả cho bị cáo Cầm Thị Hoài M , 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO RENO2 F, màn hình cảm ứng màu xanh đen, số IMEL 1: 86953044558630, số IMEL 2:869563044558622, có gắn 01 sim số thuê bao 0972783685, mặt sau điện thoại có nhiều vết rạn, nứt điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng.

- Trả cho chị Lò Thị P và anh Lò Văn Sơn, 01 chiếc xe ô tô bán tải nhãn hiệu Ford Ranger, màu sơn trắng, số máy PA4T1199138, số khung MNCLFF80FWW293677, biển kiểm soát 26C-103.84, phần đầu xe bị vỡ 01 vết khoảng 4cm cách biển số khoảng 13cm, không kiểm tra tình trạng hoạt động của xe, xe đã cũ qua sử dụng; Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06 tháng 9 năm 2022 giữa Công an huyện và Chi cục thi hành án huyện Sốp Cộp.

4.Về án phí: Căn cứ vào khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Các bị cáo Vì Văn T , Lò Thị D , Lò Văn T1, không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Cầm Thị Hoài M , phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/9/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

354
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về