Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm số 36/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TTHÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 28/03/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ HIẾM

Ngày 28 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2023/HS-ST ngày 28 tháng 2 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 29/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. La Văn T , sinh năm 1988 tại tỉnh T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Tân Hoa, xã Bình An, huyện B, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Dao; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông La Tài M và bà Triệu Thị C; có vợ là Triệu Thị T và 02 con (nhỏ sinh năm 2012, lớn sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/11/2006, Công an huyện Chiêm Hóa, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” với mức phạt 500.000đ. Cơ quan Công an đã tiến hành giao Quyết định cho T và đôn đốc nộp phạt nhưng thời điểm bị xử phạt vi phạm hành chính, T và gia đình thuộc diện hộ nghèo sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên chưa có điều kiện nộp phạt. Đến nay, đã hết thời hiệu thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nói trên. Ngày 10/9/2021, T bị Công an xã Thổ Bình, huyện B, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau”, với mức phạt tiền 750.000đ; đã nộp phạt xong ngày 08/10/2021; Bị cáo được tại ngoại đến nay, có mặt.

2. Đặng Tài P , sinh năm 1986 tại tỉnh T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Tân Hoa, xã Bình An, huyện B, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng P (Đã chết) và bà Hoàng Thị C; có vợ là Bàn Thị Đ và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo được tại ngoại đến nay có mặt.

3. Bàn Tiến C, sinh năm 1987 tại tỉnh T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Tân Hoa, xã Bình An, huyện B, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Tài T (đã chết) và bà Bàn Thị M; có vợ là Triệu Thị L và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo được tại ngoại đến nay có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo La Văn T , Đặng Tài P , Bàn Tiến C là:

Bà Trần Thị N, trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh V (có đơn xin xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Văn Đ1, sinh năm 1985;

Địa chỉ: Tổ dân phố L, thị trấn Lăng Căn, huyện B, tỉnh T (vắng mặt).

Người làm chứng: Anh Bàn Tiến H1, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 9/2022, La Văn T , Bàn Tiến C, Đặng Tài P cùng nhau lên rừng lấy măng thì phát hiện có Rắn hổ chúa nên cả ba nảy sinh ý định bắt về để bán lấy tiền hoặc thịt ăn, ngâm rượu. Sau đó, T , C, P bắt được 03 con Rắn hổ chúa còn sống rồi cả ba thống nhất giao cho T mang về nhà nuôi nhốt để xem có ai hỏi mua thì bán lấy tiền chia đều cho cả ba người. Đến khoảng 18 giờ 30 P t ngày 24/10/2022, T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của một nam giới sử dụng số điện thoại 034555xxxx tự giới thiệu tên là Sâm nhà ở T phố V, tỉnh V nói đang có nhu cầu mua 04 con Rắn hổ chúa để thịt làm hai mâm cỗ và hỏi T có bán không thì T trả lời hiện T chỉ có 03 con, nếu muốn mua 04 con thì đợi một vài ngày nữa sẽ có. Sau đó hai bên thỏa thuận giá bán Rắn hổ chúa là 300.000đ/kg và thống nhất khi nào có đủ 04 con thì T sẽ chủ động gọi điện lại cho Sâm. Sau đó, T đến gặp P và nói “Có khách ở T phố V hỏi mua 03 Rắn hổ chúa của ba anh em mình bắt được với giá 300.000đ/kg”, P nói “Thế thì bán đi”. Do vẫn thiếu 01 con Rắn hổ chúa để bán cho Sâm nên sáng ngày 25/10/2022, T một mình đi xe ô tô khách (không nhớ biển kiểm soát xe và nhân thân, lai lịch của người lái xe, người phụ xe) từ nhà đến khu vực chợ Bản Mèo thuộc xã Ngọc Hội, huyện Chiêm Hóa, tỉnh T để tìm mua. Tại đây, T gặp một nam giới (không rõ tên, tuổi và địa chỉ) và hỏi mua Rắn hổ chúa thì nam giới này nói không có Rắn hổ chúa mà đang có sẵn 01 con Rắn hổ mang phì (hay còn gọi là Rắn hổ mang Trung Quốc) có trọng lượng khoảng 02 kg bán với giá 600.000đ, T đồng ý mua và hẹn khoảng 07 giờ ngày 26/10/2022 gặp tại cổng chợ Bản Mèo để giao dịch.

Khoảng 19 giờ cùng ngày, T gọi điện thoại cho Sâm và nói “Em đã có đủ 04 con Rắn, sáng ngày mai em sẽ mang xuống V bán cho anh”, Sâm đồng ý và nói “Khi nào đến phường Khai Quang thì gọi anh ra lấy”. Một lúc sau, P và C đến nhà T rồi cả ba cùng ngồi ăn, uống rượu với nhau. Tại đây, T trao đổi với P và C hiện đang có khách ở T phố V hỏi mua 03 con Rắn hổ chúa với giá là 300.000đ/kg thì P và C đều đồng ý bán rồi thống nhất sáng hôm sau T , P , C cùng chở 02 con trâu đến T phố V thịt bán thì sẽ mang theo 03 con Rắn hổ chúa bán luôn. Sau đó, P gọi điện thoại cho anh Bàn Tiến H, sinh năm 1990 ở cùng thôn với P để thuê anh H sáng ngày 26/10/2022 lái xe ô tô chở T , P , C mang theo trâu đến T phố V để thịt bán, anh H đồng ý. Khoảng 05 giờ ngày 26/10/2022, T nhốt 03 con Rắn hổ chúa mỗi con vào 01 túi cước (02 túi cước màu trắng, 01 túi cước màu xanh) và đựng chung vào 01 bao tải xác rắn màu hồng rồi mang sang nhà C. Khi đến nơi, T để bao tải đựng Rắn dưới sàn xe ô tô BKS: 22C - xxxx tại hàng ghế sau vị trí T và P ngồi. Sau đó, anh H điều khiển xe ô tô chở T , P , C và chở theo 02 con trâu trên thùng xe phía sau đến T phố V. Khi đến khu vực xã Ngọc Hội, huyện Chiêm Hóa, tỉnh T, T bảo H dừng xe lại rồi một mình xuống xe đi bộ đến khu vực cổng chợ Bản Mèo gặp nam giới đã hẹn từ trước. Tại đây, T mua được01 con Rắn hổ mang Trung Quốc đựng trong 01 túi cước màu trắng với giá 600.000đ rồi quay lại ô tô và để túi cước màu trắng đựng con Rắn hổ mang Trung Quốc. Quay lại xe, T cất chung với bao tải xác rắn màu hồng đang đựng 03 con Rắn hổ chúa. Lúc này P và C đang ngủ nên không biết việc T mua thêm Rắn. Sau đó, anh H tiếp tục điều khiển xe ô tô đến thị trấn Sơn Nam, huyện Sơn Dương, tỉnh T thì T một mình xuống xe gặp 01 người nam giới (không rõ họ tên, tuổi và địa chỉ) lấy 05 con gà mang lên thùng phía sau xe để gửi cho khách rồi anh H tiếp tục điều khiển xe ô tô di chuyển đến T phố V. Khi đến đường Quốc lộ 2B thuộc Tổ dân phố Chùa Hà, xã Định Trung, T phố V thì Tổ công tác của Công an T phố V kiểm tra hành chính, đã phát hiện và thu giữ tại vị trí dưới sàn xe ô tô ở hàng ghế sau nơi T và P đang ngồi 01 bao tải xác rắn màu hồng bên trong có chứa 04 cá thể động vật còn sống nghi là loài Rắn hổ chúa và Rắn hổ mang Trung Quốc. T , P , C đều khai nhận trong đó có 03 con Rắn hổ chúa là của T , P và C cùng nhau bắt được và đang mang đi bán, còn lại 01 con Rắn hổ mang Trung Quốc là của T vừa mua được và đang mang đi bán. Kiểm tra trên thùng phía sau xe ô tô phát hiện có 05 con gà và 02 con trâu còn sống. Tổ công tác tiến hành niêm phong 04 con Rắn nêu trên vào 01 bao tải xác rắn màu hồng theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu A1 và tạm giữ 01 xe ô tô nhãn hiệu TRUONG GIANG, màu sơn trắng, BKS: 22C – xxxx cùng các giấy tờ kèm theo xe. Sau đó, Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc rồi đưa các đối tượng về trụ sở làm việc.

Tại cơ quan điều tra, T , C, P mỗi người đều tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO cũ, đã qua sử dụng để phục vụ điều tra.

Ngày 26/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an T phố V có Quyết định trưng cầu Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam giám định mẫu động vật được niêm phong trong 01 bao tải xác rắn ký hiệu A1. Cùng ngày, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật có Kết luận giám định động vật số 1592/STTNSV, kết luận:

“Xác định tên loài động vật:

03 (ba) cá thể động vật còn sống là loài Rắn hổ chúa có tên khoa học là Ophiophagus hannah, lớp Bò sát (reptilia).

01 (một) cá thể động vật còn sống là loại Rắn hổ mang Trung Quốc có tên khoa học là Naja atra, lớp Bò sát (Reptilia).

Xác định tình trạng bảo tồn theo quy định của pháp luật:

1. Loài Rắn hổ chúa có tên trong Phụ lục I, Danh mục các loại nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, ban hành kèm theo Nghị định số 64/2019/NĐ-CP, ngày 16/7/2019 của Chính phủ.

2. Loại Rắn hổ chúa cũng có tên trong nhóm IB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành theo Nghị định số 84/2021/NĐ-CP, ngày 22/9/2021 của Chính phủ.

3. Loài Rắn hổ mang Trung Quốc có tên trong nhóm IIB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành theo Nghị định số 84/2021/NĐ-CP, ngày 22/9/2021 của Chính Phủ.”.

Ngày 23/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an T phố V có văn bản yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự T phố V định giá đối với 01 cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc có tên khoa học là Naja atra, lớp Bò sát (Reptilia), còn sống, cân nặng 1,5kg. Tại kết luận định giá tài sản số 158/KL-HĐĐG ngày 29/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự T phố V, kết luận: “01 (Một) cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc có tên khoa học là Naja atra, lớp Bò sát (Reptilia), còn sống, cân nặng 1,5kg có trị giá 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng)”.

Cơ quan điều tra đã thông báo kết luận giám định trên cho cả ba bị cáo biết, các bị cáo đều đồng ý và không có thắc mắc, khiếu nại gì. Ngoài ra, cả ba bị cáo đều khai nhận T khẩn toàn bộ hành vi như đã nêu trên.

Cáo trạng số 28/CT-VKSTPVY ngày 24/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân T phố V truy tố La Văn T , Đặng Tài P , Bàn Tiến C tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS 2015).

Tại phiên tòa, các bị cáo giữ nguyên lời khai ở giai đoạn điều tra và thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng người đúng tội. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân T phố V giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố La Văn T , Đặng Tài P , Bàn Tiến C phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 244; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của BLHS 2015 xử phạt La Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 244; Điều 17, Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của BLHS 2015 xử phạt Đặng Tài P từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 244; Điều 17, Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của BLHS 2015 xử phạt Bàn Tiến C từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Giao bị cáo P , C cho Ủy ban nhân dân xã Bình An, huyện B, tỉnh T giám sát giáo dục trong thời gian thử thách của án treo; đề nghị không phạt tiền bổ sung các bị cáo; về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim số 036890xxxx lắp bên trong điện thoại của La Văn T , 01 bao tải xác rắn màu hồng, 03 túi cước màu trắng và 01 túi cước màu xanh đã thu giữ; tịch thu, bán sung ngân sách Nhà nước đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, đã cũ của La Văn T ; trả lại C 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, đã cũ, đã qua sử dụng, trả lại P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xám, đã cũ, đã qua sử dụng; đề nghị xem xét miễn án phí cho các bị cáo theo quy định.

Bị cáo La Văn T , Đặng Tài P , Bàn Tiến C không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử cho hưởng khoan hồng với mức án nhẹ nhất để có cơ hội tu dưỡng bản thân, tích cực tham gia lao động sản xuất giúp ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa: Anh Nguyễn Văn Điệp có đơn xin xét xử vắng mặt; trong hồ sơ vụ án đã có đủ lời khai đảm bảo cho việc xét xử vụ án nên căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định.

[3] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản sự việc và vật chứng đã được thu giữ cũng như kết luận giám định và các tài liệu khác. Có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 11h30’ ngày 26/10/2022, tại đường Quốc lộ 2B thuộc tổ dân phố Chùa Hà, xã Định Trung, T phố V, La Văn T , Bàn Tiến C và Đặng Tài P đang có hành vi vận chuyển 03 cá thể Rắn hổ chúa đi bán trái phép thì bị Tổ công tác của Công an T phố V phát hiện, kiểm tra, lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan. Tại Kết luận giám định số 1592/STTNSV ngày 26/10/2022 của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, kết luận: 03 cá thể Rắn hổ chúa có tên khoa học là Ophiophagus hannah thuộc lớp Bò sát. Loài Rắn hổ chúa có tên trong Phụ lục I, Danh mục các loại nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, ban hành kèm theo Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ. Rắn hổ chúa thuộc nhóm IB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành theo Nghị định số 84/2021/NĐ-CP, ngày 22/9/2021 của Chính phủ.

Hành vi nêu trên của La Văn T , Đặng Tài P , BànTiến C đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 244 của BLHS 2015. Điểm luật quy định:

“1. Người nào vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Săn bắt… nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ;”

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm của nhà nước làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, sự đa dạng sinh học của các hệ sinh thái khác nhau có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng loài động vật quý hiếm.

Trong vụ án này, La Văn T có vai trò chính, tham gia săn bắt, trực tiếp nuôi nhốt và khởi xướng việc vận chuyển 03 con Rắn hổ chúa đi bán kiếm lời, còn Bàn Tiến C, Đặng Tài P là đồng phạm giúp sức tích cực tham gia săn bắt và cùng T vận chuyển đi bán trái phép. Tuy nhiên, trước khi phạm tội các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công, chỉ đạo, câu kết chặt chẽ nên tính chất đồng phạm trong vụ án là giản đơn.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Trước khi phạm tội, ngoài La Văn T từng bị 02 lần xử phạt vi phạm hành chính thì Đặng Tài P và Bàn Tiến C đều là người có nhân thân tốt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng: Sau khi bị bắt, cả ba bị cáo đều T khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng một tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015. Ngoài ra, bị cáo T , P có bố đẻ là công dân hỏa tuyến, tích cực tham gia kháng chiến chống giặc bảo vệ tổ quốc được Nhà nước ghi nhận; còn bị cáo C có mẹ đẻ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất. Mặt khác, xét đến hoàn cảnh phạm tội, đặc thù vùng miền của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong vụ án này, ba bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình thuộc diện hộ nghèo. Bản thân các bị cáo không tiếp cận nhiều với thông tin tuyên truyền trên phương tiện đại chúng nên hiểu biết pháp luật về bảo vệ động vật quý hiếm còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, thực tế ở những khu vực miền núi có tài nguyên rừng, người dân thường có thói quen săn bắt, hái lượm lâm sản làm nguồn sống cho gia đình nên việc các bị cáo vào rừng mưu sinh thấy có động vật giá trị thì liền bắt mang về tăng gia cho nhà mình mà không nghĩ gì tới việc vi phạm điều cấm. Các bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử là thích đáng nhưng pháp luật của Nhà nước luôn có tính khoan hồng nhằm giúp người phạm tội nhận thức được việc làm sai trái để không tái phạm, cũng như cho người vi phạm có cơ hội sửa sai, tu dưỡng T công dân tốt. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét cho ba bị cáo được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6] Về hình phạt chính, Hội đồng xét xử dựa trên tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo La Tiến T từng bị xử phạt vi phạm hành chính hai lần nhưng không lấy làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại phạm tội thể hiện bị cáo có ý thức coi thường luật pháp cần phải xử lý nghiêm khắc hơn các bị cáo khác. Trong vụ án này T còn là người khởi xướng việc mua bán động vật hoang dã vì thế mức phạt tù giam như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân T phố V tại phiên tòa là phù hợp.

Đối với Đặng Tài P và Bàn Tiến C đều là người có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú rõ ràng vì vậy mức phạt tù cho hưởng án treo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ tính răn đe giáo dục đối với các bị cáo.

[7] Về phạt bổ sung: Các bị cáo đều là lao động tự do, thu nhập không ổn định, gia đình thuộc diện hộ nghèo sống ở vùng có kinh tế khó khăn nên khó đảm bảo cho việc thi hành án phạt tiền, vì vậy không phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 03 cá thể Rắn hổ chúa và 01 cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc thu giữ của La Văn T cùng đồng phạm. Cơ quan điều tra đã có Quyết định xử lý vật chứng và bàn giao cho Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã Hà Nội quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định là có căn cứ.

Đối với 01 bao tải xác rắn màu hồng, 03 túi cước màu trắng và 01 túi cước màu xanh thu giữ là công cụ sử dụng chứa động vật nguy cấp, quý, hiếm mang đi bán nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp 01 thẻ sim số 036890xxxx mà La Văn T sử dụng làm phương tiện liên lạc mua bán rắn nên cần tịch thu bán phát mại sung ngân sách Nhà nước. Đối với 01 thẻ sim số 036890xxxx lắp bên trong máy điện thoại của La Văn T , do không phải là sim đăng ký chính chủ của T , hiện đã bị khóa, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, đã cũ, đã qua sử dụng tạm giữ của Bàn Tiến C và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xám, đã cũ, đã qua sử dụng tạm giữ của Đặng Tài P . Đều là tài sản hợp pháp sử dụng để liên lạc cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội do vậy cần trả lại cho các bị cáo.

Đối với xe ô tô nhãn hiệu TRUONG GIANG, màu sơn trắng, BKS: 22C – xxxx tạm giữ của Đặng Tài P . Quá trình điều tra xác định, xe ô tô này là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn Điệp, sinh năm 1985, trú tại: Tổ dân phố Làng Chùa, thị trấn Lăng Can, huyện B, tỉnh T. Ngày 25/10/2022, P thuê xe ô tô này của anh Điệp để làm phương tiện chở Trâu đi bán rồi tự ý sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, anh Điệp không biết, không tham gia cùng P và đồng phạm. Ngày 12/01/2023, Cơ quan CSĐT Công an T phố V có Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe ô tô trên cùng các giấy tờ kèm theo cho chủ sở hữu, anh Điệp đã nhận lại tài sản và không có đề nghị gì nên không đặt ra xem xét.

Đối với 02 con trâu và 05 con gà còn sống, quá trình điều tra xác định, 02 con trâu này là của T , P , C góp tiền mua chung mang đến T phố V để thịt bán kiếm lời. Tuy nhiên, T , P , C đều chưa thực hiện kiểm dịch động vật khi vận chuyển ra khỏi địa bàn cấp tỉnh đối với 02 con trâu này nên Cơ quan điều tra đã giao lại 02 con trâu này cho T , P , C, buộc thực hiện việc kiểm dịch lại động vật theo quy định. Còn 05 con gà là của T gửi cho khách hàng, không liên quan đến hành vi phạm tội do vậy Cơ quan điều tra đã trả lại 05 con gà cho T là có căn cứ.

[9] Đối với đối tượng và hành vi có liên quan trong vụ án:

Đối với anh Bàn Tiến H là người điều khiển xe ô tô chở La Văn T cùng đồng phạm đi bán trái phép động vật nguy cấp, quý, hiếm. Quá trình điều tra xác định, anh H được Đặng Tài P thuê lái xe chở cả nhóm mang theo 02 con trâu đến T phố V để thịt bán, trước khi đi P cùng đồng phạm không bàn bạc cũng như không nói cho anh H biết việc vận chuyển các động vật nguy cấp, quý, hiếm đi bán nên anh H không biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với người nam giới tên Sâm (theo La Văn T khai là người trực tiếp liên lạc với T để đặt mua Rắn hổ chúa), quá trình điều tra T khai nhận: T chưa gặp Sâm bao giờ, cũng không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của Sâm, chỉ nghe Sâm giới thiệu nhà ở T phố V và Sâm có sử dụng số điện thoại 034555xxxx để liên lạc với T . Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel xác định, chủ đăng ký số điện thoại 034555xxxx là chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1999, trú tại: Tổ dân phố số 4, thị trấn Cổ P c, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Tuy nhiên, qua làm việc với Cơ quan điều tra, chị H khai chị không sử dụng số thuê bao này và cũng không quen biết người nào tên Sâm ở T phố V. Ngoài lời khai của T thì cũng không có tài liệu nào khác xác định nhân thân, lai lịch về người nam giới tên Sâm. Do vậy, Cơ quan điều tra cần tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với người nam giới bán 01 cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc cho La Văn T , quá trình điều tra T khai nhận 01 cá thể Rắn này T mua của 01 người nam giới (không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) tại khu vực chợ Bản Mèo thuộc xã Ngọc Hội, huyện Chiêm Hóa, tỉnh T. Ngoài lời khai của T thì cũng không có tài liệu nào khác xác định nhân thân, lai lịch về người nam giới này. Do vậy, Cơ quan điều tra cần tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi của La Văn T nuôi, nhốt 03 con Rắn hổ chúa tại góc vườn nhà riêng của T , quá trình điều tra xác định khi T nuôi, nhốt 03 con Rắn này thì chị Triệu Thị T, sinh năm 1989, trú tại: Thôn Tân Hoa, xã Bình An, huyện B, tỉnh T (là vợ của T ) và những người khác trong gia đình T đều không biết, không tham gia giúp sức gì cho T nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với hành vi của La Văn T vận chuyển, mua bán 01 cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc còn sống, cân nặng 1,5 kg, trị giá 600.000đ thuộc nhóm IIB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành theo Nghị định số 84/2021/NĐ-CP, ngày 22/9/2021 của Chính phủ là đã vi phạm quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 23 Nghị định 35/2019/NĐ-CP ngày 25/4/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Lâm nghiệp, được sửa đổi bổ sung tại điểm a, khoản 14, Điều 1, Nghị định 07/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; thú y; chăn nuôi. Quá trình điều tra xác định, khi T mua cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc này T không trao đổi, bàn bạc gì với P và C; P và C cũng không biết, không liên quan đến việc mua bán cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc này của T . Do vậy, Cơ quan điều tra không xử lý đối với P và C về hành vi này. Ngày 07/12/2022, Công an T phố V đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với La Văn T về hành vi trên, hình thức: phạt tiền, mức phạt:

3.000.000đ là có căn cứ.

Đối với hành vi của La Văn T , Bàn Tiến C và Đặng Tài P vận chuyển 02 con trâu thuộc diện phải kiểm dịch ra khỏi địa bàn cấp tỉnh nhưng không đăng ký kiểm dịch động vật là đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định 90/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thú y. Do vậy, ngày 02/11/2022, Công an T phố V đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với La Văn T , Bàn Tiến C và Đặng Tài P về hành vi trên, hình thức: phạt tiền, mức phạt mỗi người: 1.250.000đ là có căn cứ .

[10] Về án phí: La Văn T , Đặng Tài P , Bàn Tiến C đều thuộc diện hộ nghèo, có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử chấp nhận miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố La Văn T , Đặng Tài P , BànTiến C phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 244; khoản 1 Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS 2015 xử phạt La Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 244; khoản 1 Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 của Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của BLHS 2015 xử phạt Đặng Tài P 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 244; khoản 1 Điều 17; Điều 58; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 của Điều 65 của BLHS 2015 xử phạt Bàn Tiến C 01 (Một) năm 03 (Ba) tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Giao bị cáo P , C cho Ủy ban nhân dân xã Bình An, huyện B, tỉnh T giám sát giáo dục trong thời gian thử thách của án treo;

Trong thời gian thử thách của án treo, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim số 036890xxxx lắp trong máy điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đỏ, cũ, thu của La Văn T ; 01 bao tải xác rắn màu hồng; 03 túi cước màu trắng và 01 túi cước màu xanh thu giữ của La Văn T cùng đồng phạm.

Tịch thu bán sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, đã cũ, đã qua sử dụng của La Văn T .

Trả lại Bàn Tiến C 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, đã cũ, đã qua sử dụng. Trả lại Đặng Tài P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xám, đã cũ, đã qua sử dụng.

(Vật chứng có đặc điểm nêu tại biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự T phố V, tỉnh Vĩnh Phúc)

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho La Văn T , Đặng Tài P , BànTiến C.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án, trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm số 36/2023/HS-ST

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về