Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ GIANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử hình sự Tòa án nhân dân thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2022/HSST ngày 12/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXX - ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo sau:

Bùi Thị O - Sinh ngày 11/10/1984; tại S, tỉnh T; Nơi đăng KHKTT: Xã T, huyện S, tỉnh T; Nơi cư trú: Thôn T, xã P, thành phố H, tỉnh H; Nghề nghiệp: kế toán; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Văn T - sinh năm: 1960; Con bà: Nguyễn Thị Y - sinh năm: 1961; có chồng là Bùi Quang Q - sinh năm: 1981; có 2 con, lớn nhất 6 tuổi, nhỏ nhất 4 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 27/02/2019 bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Giang tuyên phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”, đã chấp hành xong án hình phạt đã được xóa án tích; Hiện Bùi Thị O đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/6/2022 đến nay, có mặt tại phiên toà;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Thị O trú tại thôn T, xã P, thành phố H, tỉnh H, đăng ký và trực tiếp sử dụng tài khoản facebook, zalo có tên “O Bùi” (đăng ký qua số thuê bao 0385521078 của O), O đã dùng chiếc điện thoại và sử dụng tài khoản facebook và zalo “O Bùi” để đăng bài viết bán hàng online. Khoảng đầu năm 2022, O tải hình ảnh về sản phẩm, bộ phận của động vật nguy cấp, quý hiếm (như móng gấu, móng hổ, ngà voi, mật gu...) trên mạng xã hội để đăng bán trên facebook và zalo “O Bùi”. Khoảng đầu tháng 4/2022, zalo có tên “AN” (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) nhắn tin đến zalo “O Bùi” để hỏi mua 01 túi mật khô và 03 chiếc móng của loài Gấu, O đồng ý. Sau khi thỏa thuận với “AN”, O tìm trên mạng xã hội và đặt mua 01 túi mật khô và 04 chiếc móng của loài Gấu (chưa xác định được nhân thân, lai lịch người bán) với giá 10.000.000 đồng (thỏa thuận mua mật và móng của loài Gấu do con người nuôi). Khoảng giữa tháng 4/2022, người bán gửi 01 túi mật khô và 04 chiếc móng của loài Gấu qua dịch vụ chuyển phát hàng hóa đến cho O, sau khi nhận và kiểm tra hàng hóa O trả số tiền 10.000.000 đồng cho nhân viên giao hàng, O cất 01 túi mật khô và 04 chiếc móng của loài Gấu trong tủ lạnh, sau đó liên lạc với “AN” để thống nhất giao dịch mua bán. O thỏa thuận bán 01 túi mật khô của loài Gấu với giá 10.000.000 đồng và 03 chiếc móng Gấu với giá 1.500.000 đồng, còn 01 chiếc móng Gấu bé hơn O trao đổi và “AN” đồng ý mua thêm chiếc móng Gấu bé với giá 300.000 đồng, tổng tiền là 11.800.000 đồng, “AN” đồng ý mua. Ngày 21/4/2022, O và “AN” thỏa thuận giao dịch mua bán tại đường HO thuộc phường M, thành phố H. Khoảng 17 giờ, O đến đường HO thuộc tổ X, phường M, thành phố H để bán mật và móng của loài Gấu cho “AN” thì bị lực lượng Công an thành phố Hà Giang phát hiện và bắt quả tang. Quá trình kiểm tra O đã tự nguyện giao nộp 01 túi mật khô và 04 chiếc móng nghi là của loài Gấu.

- Ngày 21/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hà Giang đã tiến hành niêm phong 01 túi mật khô và 04 chiếc móng nghi là của loài Gấu theo quy định của pháp luật.

- Ngày 26/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hà Giang Quyết định trưng cầu giám định số 48/QĐ-CQĐT về việc xác định tên, loài, tình trạng bảo tồn của loài động vật.

- Ngày 23/5/2022, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Kết luận giám định động vật số 664/STTNSV kết luận như sau:

Xác định tên loài động vật: + 04 (bốn) móng động vật là của loài Gấu ngựa, có tên khoa học Ursus thibetanus.

+ 01 (một) túi mật khô là của loài Bò, có tên khoa học Bos taurus.

Xác định tình trạng bảo tồn theo quy định pháp luật.

+ Loài Gấu ngựa, (Ursus thibetanus) có tên trong nhóm IB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp quý, hiếm ban hành kèm theo Nghị định 84/2021/NĐ-CP ngày 22/9/2021 của Chính phủ. Loài Gấu ngựa, (Ursus thibetanus) có tên trong phụ lục I nhóm IB, Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, ban hành kèm theo Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ.

+ Loài Bò (Bos taurus) là động vật thông thường.

* Vật chứng đã thu giữ:

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang đã tiến hành thu giữ tài liệu, đồ vật sau:

- 04 (bốn) chiếc móng của loài Gấu ngựa; 01 (một) túi mật khô của loài Bò (Bò thông thường).

Các vật chứng trên được niêm phong trong 01 (một) phong bì có dấu, chữ ký của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Trong quá trình điều tra, bị can Bùi Thị O đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội: Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm của mình và phù hợp với các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy hành vi của bị cáo Bùi Thị O đã cấu thành tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật hình sự.

Trước Cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản Cáo trạng số: 20/CT-VKSTPHG ngày 11/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo Bùi Thị O về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm” theo điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thị O đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Giang sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: bị cáo Bùi Thị O phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 244; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 BLHS, đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Bùi Thị O từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: 04 (bốn) móng động vật là của loài Gấu ngựa, có tên khoa học Ursus thibetanus là vật chứng phạm pháp, cấm tàng trữ, lưu hành cần phải tịch thu tiêu hủy; 01 (một) túi mật khô là của loài Bò, có tên khoa học Bos taurus (Bò thông thường) là vật chứng không có giá trị sử dụng cần phải tịch thu tiêu hủy theo đúng quy định của pháp luật, số vật chứng trên được niêm phong trong 01 (một) phong bì có dấu, chữ ký của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Bùi Thị O không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo thực hiện quyền nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thực sự hối lỗi và ăn năn hối cải; ông ngoại của chồng bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Thị O tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của VKS đã nêu, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 20 phút ngày 21/4/2022, tại đường HO thuộc tổ X, phường M, thành phố H , tỉnh H. Bùi Thị O đang thực hiện hành vi buôn bán trái phép 04 (bốn) chiếc móng của Gấu ngựa (là sản phẩm của động vật thuộc Bộ thú ăn thịt có số thứ tự 26 trong Phụ lục I Danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ, theo Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ) cho 01 (một) đối tượng có zalo tên “AN” không rõ tên tuổi địa chỉ thì bị Công an thành phố Hà Giang phát hiện và bắt quả tang. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Giang truy tố bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và có sự hiểu biết về pháp luật, nhận thức được hành vi mua bán trái phép 04 (bốn) chiếc móng của Gấu ngựa là vi phạm pháp luật, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, muốn có tiền để chi tiêu vào mục đích cá nhân, bị cáo O đã thực hiện hành vi mua bán bộ (sản phm của động vật thuộc Bộ thú ăn thịt có s thứ tự 26 trong Phụ lục I Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, theo Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ) nhằm kiếm lời thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Bị cáo tự mình thực hiện hành vi phạm tội, không có đồng phạm, nên phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ TNHS: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông ngoại của chồng bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, có nơi cư trú rõ ràng, không cần thiết buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội mà xem xét hình phạt phù hợp với hành vi của bị cáo đã gây ra.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 244 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000đ.... Theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện bị cáo có nghề nghiệp là kế toán, có hai con còn quá nhỏ, thu nhập thấp không đảm bảo cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của gia đình, vì vậy, không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: 04 (bốn) móng động vật là của loài Gấu ngựa, có tên khoa học Ursus thibetanus; 01 (một) túi mật khô là của loài Bò, có tên khoa học Bos taurus (Bò thông thường). Các vật chứng trên được niêm phong trong 01 (một) phong bì có dấu, chữ ký của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Số vật chứng nêu trên thu giữ của bị cáo là vật chứng phạm pháp, vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành cần phải tịch thu tiêu hủy theo đúng quy định của pháp luật.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo O phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thị O phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.

2. Hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo: Bùi Thị O 15 (Mười năm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho UBND xã P, thành phố H, tỉnh H và gia đình nơi bị cáo cư trú theo dõi, giám sát và giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định.

3) Về xử vật chứng:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 04 (bốn) móng động vật là của loài Gấu ngựa, có tên khoa học Ursus thibetanus; 01 (một) túi mật khô là của loài Bò, có tên khoa học Bos taurus (Loài Bò thông thường).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Bùi Thị O phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm hình sự, báo cho bị cáo Bùi Thị O có mặt biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Giang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về