TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 11/3/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM
Trong ngày 11 tháng 3 năm 2022, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự đã thụ lý số: 02/2022/TLST- HS ngày 27/01/2022, theo Quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXX-ST ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Văn N - 1992.
Nơi cư trú và chỗ ở: Xóm P2, xã P3, huyện P, tỉnh T. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Học vấn:
9/12. Con ông: Nguyễn Văn T1- 1968; Con bà: Trần Thị T2- 1968. Vợ: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.
Người có làm chứng: Đỗ Văn L- 1991 (Vắng mặt) Trú tại: Xóm P8, xã P3, huyện P, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 03/11/2021, tại gia đình ông Nguyễn Văn T1- 1968, trú tại xóm P3, xã P2, huyện P, tỉnh T tổ công tác gồm phòng cảnh sát môi trường- Công an tỉnh Thái Nguyên, Công an huyện Phú Lương, Hạt kiểm lâm huyện Phú Lương phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn N là con trai ông T1 có hành vi nhốt 01 cá thể rắn nghi là rắn hổ mang chúa. Tổ công tác đã lập biên bản, niêm phong vật chứng và bàn giao hồ sơ, vật chứng cho cơ quan CSĐT- Công an huyện Phú Lương giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan CSĐT- Công an huyện Phú Lương đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với 01 cá thể rắn bị thu giữ.
Tại Bản kết luận giám định động vật số 971/STTNSV ngày 04/11/2021 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật, kết luận:
+ 01 mẫu động vật là loài rắn Hổ chúa, có tên khoa học là Ophiophagushannah.
+ Rắn hổ chúa có tên trong Danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ ban hành kèm theo Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính Phủ. Rắn hổ chúa cũng thuộc nhóm 1B trong Danh mục động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành kèm theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ.
Quá trình điều tra Nguyễn Văn N đã thừa nhận ngày 23/10/2021, N đi rừng tìm cây cảnh tại xóm Khe Quân, xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ. N phát hiện 01 cá thể rắn hổ mang chúa dài khoảng 02 m, nặng khoảng 01 kg. N dùng tay cầm vào đuôi rắn và cởi áo khoác đang mặc trùm vào đầu rắn, sau đó cho rắn vào ống tay áo buộc hai đầu tay áo đem rắn về nhà. Khi về đến nhà N cho rắn vào túi lưới cước cất giấu. Ngày 02/11/2021 N đang ở nhà thì có một người đàn ông không quen biết đến mua của N 01 cá thể rắn hổ trâu. Do làm nghề nuôi rắn nên N đã bán cho người này 01 cong rắn hổ trâu nặng 1,4 kg với giá 600.000 đồng. Sau khi mua xong người này hỏi mua 01 cá thể rắn hổ chúa về làm thuốc. Do chưa biết giá nên N hẹn người này đến chiều hôm sau sẽ liên lạc. Khoảng 14 giờ ngày 03/11/2021 N liên lạc với người đàn ông thông báo là đã có rắn hổ chúa. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 03/11/2021 thì người đàn ông này đến nhà N. N mang cá thể rắn hổ chúa ra cân nặng là 01 kg. Người đàn ông này hỏi mua thêm 01 cá thể rắn hổ mang bành nữa, N đồng ý. N ra chuồng bắt rắn thì bị Công an phát hiện bắt giữ. Người mua rắn đã chạy thoát.
Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKSPL ngày 26/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Văn N về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo điểm a khoản 1 Điều 244 của BLHS.
Tại phiên tòa ngày hôm nay đại diện VKSND huyện Phú Lương giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 244; Điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo N mức án từ 18 - 24 tháng tù, xử lý vật chứng và chịu án phí theo pháp luật.
Bị cáo không bào chữa, không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
{1}. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điểu tra Công an huyện Phú Lương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T1 hành tố tụng, người T1 hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T1 hành tố tụng, người T1 hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
{2.}Về căn cứ buộc tội:
- Bị cáo N khai: Khoảng Ngày 23/10/2021 bị cáo đi tìm cây cảnh tại xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ. Khi đi tìm cây, bị cáo phát hiện một cá thể rắn màu đen, dài khoảng 02 m, nặng khoảng 1 kg nên bị cáo đã bắt đem về nhà cất giấu. Do gia đình bị cáo nuôi rắn nên ngày 02/11/2021 có một người đến mua của bị cáo 01 con rắn hổ trâu. Sau khi mua xong người này hỏi bị cáo mua 01 con rắn hổ chúa. Bị cáo lấy số điện thoại của người đó. Chiều ngày 03/11/2021 bị cáo điện thoại cho người đó đến lấy rắn hổ chúa. Khi người đó đến bị cáo lấy con rắn hổ chúa ra cân. Sau đó người đó hỏi mua thêm 01 con rắn hổ bành. Bị cáo ra chuồng bắt rắn thì bị Công an đến và lập biên bản. Khi đó người mua rắn đã bỏ chạy. Bị cáo biết rắn hổ chúa là hàng quý, hiếm Nhà nước cấm nhốt, mua bán.
- Lời khai của người làm chứng, người liên quan - Kết luận định giám định.
Như vậy Nguyễn Văn N là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã có hành vi nhốt, mua bán 01 cá thể rắn hổ chúa là động vật rừng thuộc nhóm nguy cấp, quý, hiếm thuộc nhóm 1B, đã phạm tội “Vi pham quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” phạm vào điểm a khoản 1 Điều 244 của BLHS.
Tại Điều 244 của BLHS quy định:
1. Người nào vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc thuộc Danh mục thực vật, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật thực vật hoang dã nguy cấp thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a, Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý , hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà Điều luật quy định.
{3}. Xét tính chất hành vi:
Xét về tính chất hành vi của bị cáo nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến các quy định của Nhà nước trong việc bảo vệ hệ cân bằng sinh thái, đa dạng sinh thái học của các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm trong môi trường sinh thái. Hành vi đó còn làm mất trật tự an toàn xã hội.
{4}. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Xét tình tiết giảm nhẹ TNHS thì thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Ngoài ra bị cáo có ông nội là người có công được tặng thưởng “Huy chương kháng chiến hạng nhì” nên đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy đinh tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.
Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Cho đến thời điểm bị cáo phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên đây là tình tiết nhân thân khi xem xét quyết định hình phạt.
{6}. Về hình phạt:
Căn cứ vào tính chất hành vi, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và thái độ ăn năn hối cải của bị cáo thì cần xử bị cáo mức án từ 15 đến 18 tháng tù và cho bị cáo hưởng án treo như đề nghị của VKS là phù hợp và cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
{8}. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định sung công quỹ nhà nước.
{9}. Về vật chứng: 01 điện thoại Samsung A11 gắm sim số 0362021115 và sim 0948732095 cần tịch thu sung công.
01 áo phao, 01 túi lưới cước cần tịch thu tiêu hủy.
Vì các lẽ nêu trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 244; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2014/NQ - UBTVQH14
Tuyên bố: Nguyễn Văn N phạm tội; “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.
Xử phạt: Nguyễn Văn N: 18(Mười tám) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 (Ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo N cho UBND xã P2, huyện P, tỉnh T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo N có trách nhiệm phối hợp với UBND xã P2 trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
* Về vật chứng: Tịch thu sung công 01 điện thoại Samsung A11 gắm sim số 0362021115 và sim 0948732095.
Tịch thu tiêu hủy 01 áo phao, 01 túi lưới cước theo Quyết định chuyển vật chứng số 04 ngày 26/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương và biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Phú Lương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Lương ngày 11/02/2022.
* Về án phí: Buộc bị cáo N phải chịu 200.000 đồng án phí HSST sung công.
Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 06/2022/HS-ST
Số hiệu: | 06/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về