Bản án về tội vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 22 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 05 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 01 tháng 12 năm 1991, tại Hoà Bình; Nơi cư trú:

Thôn C, xã H, huyện L, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn X và bà Tạ Thị B (chết); có vợ là Nghiêm Thị Hải L, sinh năm 1994 và có 01 con chung; tiền án, tiền sự: Không; về nhân thân: Bản án số: 59/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2008, Toà án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số: 43/HSPT ngày 27 tháng 9 năm 2010 bị Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình xử phạt 48 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; Bản án số: 231/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2014, bị Toà án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số: 31/HSST ngày 18 tháng 8 năm 2019 Toà án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” , các bản án trên bị cáo chấp hành xong và được đương nhiên xóa án tích; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2022 cho đến nay. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh A. Địa chỉ: 175 Quốc lộ 62, phường 6, thành phố Tân An, tỉnh A.

Đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn L1 - Chức vụ: Chánh Thanh tra - Thanh tra quốc phòng - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh A. (Có mặt)

- Người làm chứng:

1. Ông Lâm Thanh D - Sinh năm 1969 - Địa chỉ: Ấp 4, xã M, huyện Đ, tỉnh L. (Vắng mặt) 2. Ông Võ Văn C - Sinh năm 1978 - Địa chỉ: Ấp 4, xã M, huyện Đ, tỉnh L.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 30 phút, ngày 16/9/2022, tại Trạm Biên phòng Cửa khẩu Mỹ Quý Tây thuộc ấp 4, xã Mỹ Quý Tây, huyện Đ, tỉnh A. Trong khi đang làm thủ tục xuất, nhập cảnh cho hành khách, Trạm Biên phòng Cửa khẩu Mỹ Quý Tây phát hiện Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/12/1991, sử dụng giấy tờ nhập cảnh không hợp lệ nên yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Tuy nhiên, T bỏ chạy, lực lượng Biên phòng đuổi theo khống chế, bắt giữ lại tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi xách hành lý của T gồm có: 01 (một) khẩu súng ngắn K59, số súng 6168;

01 (một) khẩu súng ngắn màu đen, trắng hiệu Majarov, số súng: V2IEKDR02 - 2100429; 25 (hai mươi lăm) viên đạn; tiền Việt Nam 20.000.000 đồng.

Tang vật tạm giữ:

- Thu giữ 01 (một) khẩu súng ngắn K59, số súng 6168; 01 (một) khẩu súng ngắn màu đen, trắng hiệu Majarov, số súng: V2IEKDR02 - 2100429 và 25 (hai mươi lăm) viên đạn.

- Thu giữ tiền Việt Nam 20.000.000 đồng (hai mươi triệu).

- Thu giữ 01 (một) túi vải xách tay màu đỏ hiệu T- C; 01 (một) túi vải (loại đeo chéo ngực) màu đen, trước túi vải có dòng chữ 30th WE GROW TOGETHER THROUGH 30 YEARS.

- Thu giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 13 Promax màu đen, số máy MLL63VN/A, số sê ri T5WMGHVWOT, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số 09686xxxx; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 Plus màu trắng đỏ Promax màu đen, số máy MPQW2VC/A, số sê ri F2MTCKE2HX9G, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số 039400xxxx.

- Thu giữ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 11337xxxx mang tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/12/1991.

Nguyễn Văn T khai nhận: Vào ngày 12/9/2022, T từ Thành phố Hồ Chi Minh đến Arồi thuê xe ôm xuất cảnh trái phép sang Campuchia theo đường mòn, mục đích vào đánh bạc tại Casino. Vào khoảng 12 giờ ngày 15/9/2022, sau khi đánh bạc thua hết tiền, T được một người đàn ông đến làm quen và giới thiệu tên T1 ở Hà Nội, T1 đề nghị T vận chuyển cho T1 02 (hai) khẩu súng và 25 (hai mươi lăm) viên đạn về Việt Nam với tiền công 20.000.000 đồng. Khi về đến bãi xe thuộc ấp 4, xã Mỹ Quý Tây, huyện Đ, tỉnh Acó người đến nhận súng, đạn, T đồng ý. Khoảng 13 giờ ngày 16/9/2022, T1 giao cho T súng và đạn nói trên cùng số tiền 20.000.000 đồng, đến 15 giờ 30 phút cùng ngày T bị Trạm Biên phòng Cửa khẩu Mỹ Quý Tây bắt quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số: 5204/KL-KTHS ngày 17 tháng 9 năm 2022, của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Khẩu súng ngắn màu đen là khẩu súng quân dụng K59, số súng 6168 là số đóng mới, không xác định được số súng nguyên thuỷ. Súng sữ dụng để bắn với đạn quân dụng cỡ (9x18) mm. Không đủ cơ sở xác định xác định năm sản xuất của khẩu súng này.

- Khẩu súng ngắn màu đen, trắng nguyên là súng công cụ hổ trợ cỡ 9mm, số súng V2IEKDR02 - 2100429, không đủ cơ sỡ xác định năm sản xuất của khẩu súng, Súng đã được chế tạo, thay thế một số bộ phận để bắn với đạn cỡ (9x17) mm. Hiện tại súng có đủ bộ phận và bắn được đạn nổ, khẩu súng nêu trên thuộc nhóm quân dụng.

- 03/25 viên đạn gửi giám định (đầu đạn màu xám), đít đạn ký hiệu PMC 380 AUTO là đạn quân dụng cỡ (9x17) mm, thường được sử dụng với một loại súng có cỡ nòng 9mm và khẩu súng Majarov tự chế nêu trên (Phân Viện khoa học hình sự tại TPHCM, đã bắn thực nghiệm 01 viên đạn cỡ (9x17) mm, hoàn trả lại 02 viên đạn cỡ (9x17) mm.

- 22/25 viên đạn gửi giám định cỡ 99 x 18mm, đạn thường được sử dụng với các loại súng cỡ nòng 09mm và khẩu súng K59 nêu trên.

Cơ quan An ninh điều tra đã xử lý vật chứng: 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 11337xxxx mang tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/12/1991, do Công an tỉnh Hoà Bình cấp ngày 28/7/201, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 13 Promax màu đen, số máy MLL63VN/A, số sê ri T5WMGHVWOT, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số 09686xxxx; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 Plus màu trắng đỏ Promax màu đen, số máy MPQW2VC/A, số sê ri F2MTCKE2HX9G, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số 039400xxxx là tài sản cá nhân của bị cáo T không liên quan đến vụ án, Cơ quan An Ninh điều tra ra quyết định xử lý vật chứng số 05/QĐ-ANĐT ngày 15/12/2022 đã trả lại cho Nghiêm Thị Hải Linh là vợ của bị cáo T theo biên bản trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu lúc 10 giờ ngày 15/12/2022.

Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Ađã tạm chuyển cho Bộ Chỉ huy quận sự tỉnh A(Phòng kỹ thuật): 01 (một) khẩu súng ngắn K59, số súng 6168; 01(một) khẩu súng ngắn màu đen, trắng hiệu Majarov, số súng: V2IEKDR02 - 2100429; đạn cở (9x18)mm là 22 viên; đạn cở (9x17)mm là 02 viên; theo lệnh nhập kho số 03/NVK-22 ngày 07/12/2022 của Phòng kỹ thuật.

Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ đang quản lý: 01 (một) túi vải xách tay màu đỏ hiệu T- C; 01 (một) túi vải (loại đeo chéo ngực) màu đen, trước túi vải có dòng chữ 30th WE GROW TOGETHER THROUGH 30 YEARS; số tiền 20.000.000 đồng của bị cáo T1 khi bị bắt quả tang (biên lai số 00001398 ngày 01/3/2023).

Đối với hành vi xuất nhập cảnh trái phép của Nguyễn Văn T vào ngày 16/9/2022, Đồn biên phòng cửa khẩu Mỹ Quý Tây ra quyết định xử phạt Hành chính 4.000.000 đồng.

Cáo trạng số: 17/CT-VKSLA-P2 ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ađã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ vẫn giữ cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Văn T. Sau khi phân tích tính chất của hành vi và hậu quả xảy ra, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng”.

Căn cứ: điểm b khoản 2 Điều 304, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 32, Điều 38 Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 06 năm đến 07 năm tù.

Áp dụng khoản 4 Điều 304 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn T từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị:

Phần Cơ quan An ninh điều tra đã xử lý xong không có yêu cầu xem xét lại nên không xem xét.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 20.000.000 đồng của bị cáo T khi bị bắt quả tang có được, đây là tiền công do thực hiện tội phạm mà có.

- Tịch thu giao cho Bộ Chỉ huy quận sự tỉnh Aquản lý theo quy định:

01 (một) khẩu súng ngắn K59, số súng 6168; 01(một) khẩu súng ngắn màu đen, trắng hiệu Majarov, số súng: V2IEKDR02 - 2100429; đạn cở (9x18)mm là 22 viên;

đạn cở (9x17)mm là 02 viên, theo lệnh nhập kho số 03/NVK-22 ngày 07/12/2022 của Phòng kỹ thuật.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) túi vải xách tay màu đỏ hiệu T-C; 01 (một) túi vải (loại đeo chéo ngực) màu đen, trước túi vải có dòng chữ 30th WE GROW TOGETHER THROUGH 30 YEARS, bị cáo sử dụng làm công cụ thực hiện tội phạm.

Tang vật hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ đang quản lý. Đối với đối tượng tên “T1” đã thuê T vận chuyển vũ khí quận dụng, T1 sống ở Campuchia nên không rõ nhân thai, lai lịch không làm việc được, khi làm rõ xử lý sau.

Đối với người chạy xe ôm chở T xuất cảnh trái phép không rõ nhân thân lai lịch không làm việc được, khi làm rỏ xử lý sau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Ado Nguyễn Văn Lâm đại diện theo ủy quyền, đồng ý nhận 01 (một) khẩu súng ngắn K59, số súng 6168; 01(một) khẩu súng ngắn màu đen, trắng hiệu Majarov, số súng: V2IEKDR02 - 2100429; đạn cở (9x18)mm là 22 viên; đạn cở (9x17)mm là 02 viên để quản lý sử dụng theo quy định của pháp luật.

Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị á n: Bị cáo Nguyễn Văn T biết việc làm là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải, hứa không t ái phạm, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì hoàn cảnh gia đình khó khăn .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ quan An ninh điều tra, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử đều thực hiện đúng và hợp pháp. Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan An ninh điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát thu thập là hợp pháp.

[2] Vì động cơ vụ lợi, vào ngày 16/9/2022, Nguyễn Văn T nhận vận chuyển thuê cho tên T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) 02 khẩu súng và 25 viên đạn từ Campuchia về Việt Nam với giá 20.000.000 đồng. Vào lúc 15 giờ 30 phút, ngày 16/9/2022, khi làm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam tại Trạm Biên phòng cửa khẩu Mỹ Quý Tây thuộc thuộc ấp 4, xã Mỹ Quý Tây, huyện Đ, tỉnh Athì bị lực lượng Biên phòng cửa khẩu Mỹ Quý Tây kiểm tra phát hiện bắt quả tang người và tang vật.

[3] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản vụ việc và Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Đồn biên phòng cửa khẩu Mỹ Quý Tây, huyện Đ lập lúc 15 giờ 50 phút, ngày 16/9/2022, kết luận giám định số: 5204/KL-KTHS ngày 17 tháng 9 năm 2022, của Phân Viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó, đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng bị cáo Nguyễn Văn T phạm vào tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự. Như vậy, cáo trạng số: 17/CT-VKSLA-P2 ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ađã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T với tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn công cộng, bằng việc vi phạm quy định của Nhà nước về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán và quản lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự Việt Nam; xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, làm giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực quản lý sử dụng vũ khí quân dụng. Bị cáo là người thành niên có đủ năng lực nhận thức thực hiện do lỗi cố ý có mục đích và động cơ vụ lợi vì tiền mà đã nhận lời đưa vào Việt Nam 02 khẩu súng ngắn và 25 viên đạn. Hành vi này phải được xử lý nghiêm, bản thân bị cáo có nhiều lần bị Tòa án các cấp sử phạt đã được đương nhiên xóa án tích nhưng bản tính không thay đổi, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới có đủ tác dung giáo dụng và phòng ngừa.

[4.1] Ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 4 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét thấy, bị cáo Nguyễn Văn T trong quá trình xét xử thật thà khai báo, không có việc làm ổn định, con còn nhỏ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về khung hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T là có cơ sở theo quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Phần Cơ quan An ninh điều tra đã xử lý xong không có yêu cầu xem xét lại nên không xem xét.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 20.000.000 đồng của bị cáo T có được do thực hiện tội phạm.

- Tịch thu giao cho Bộ Chỉ huy quận sự tỉnh Aquản lý theo quy định:

01 (một) khẩu súng ngắn K59, số súng 6168; 01(một) khẩu súng ngắn màu đen, trắng hiệu Majarov, số súng: V2IEKDR02 - 2100429; Đạn cở (9x18)mm là 22 viên ; Đạn cở (9x17)mm là 02 viên, theo lệnh nhập kho số 03/NVK-22 ngày 07/12/2022 xủa Phòng kỹ thuật.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) túi vải xách tay màu đỏ hiệu T-C; 01 (một) túi vải (loại đeo chéo ngực) màu đen, trước túi vải có dòng chữ 30th WE GROW TOGETHER THROUGH 30 YEARS, bị cáo sử dụng làm công cụ thực hiện tội phạm.

Tang vật hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ đang quản lý.

[8] bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng”.

Căn cứ: điểm b khoản 2 Điều 304; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều Điều 32, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Các Điều 299, Điều 326, Điều 327 và Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 16/9/2022). Tiếp tục ra quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 22/5/2023) để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Căn cứ khoản 4 Điều 304 Bộ luật Hình sự: Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn T 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), biên lai thu tiền số 0001398 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) túi vải xách tay màu đỏ hiệu T-C; 01 (một) túi vải (loại đeo chéo ngực) màu đen, trước túi vải có dòng chữ 30th WE GROW TOGETHER THROUGH 30 YEARS.

Tang vật và tiền hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ đang quản lý.

- Tịch thu giao cho Bộ Chỉ huy quận sự tỉnh Aquản lý theo quy định:

01 (một) khẩu súng ngắn K59, số súng 6168; 01(một) khẩu súng ngắn màu đen, trắng hiệu Majarov, số súng: V2IEKDR02 - 2100429; Đạn cở ( 9x 18)mm là 22 viên ; Đạn cở (9x17)mm là 02 viên, theo lệnh nhập kho số 03/NVK-22 ngày 07/12/2022 của Phòng kỹ thuật.

Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 22/5/2023).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về