Bản án về tội vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 11 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2022/TLST-HS ngày 26/5/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST-HS ngày 29/6/2022, đối với các bị cáo:

1. Võ Văn T, sinh ngày 26/3/1982 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện G, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 09/12;

dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ C (đã chết) và bà: Trương Thị T, sinh năm 1956; vợ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1992; con: Có 3 con, lớn nhất 12 tuổi, nhỏ nhất 03 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2022, đến ngày 04/5/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Bảo lĩnh cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Trương Huy B, sinh ngày 20/10/1983 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện G, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương T, sinh năm 1945 và bà: Võ Thị Th (đã chết); vợ: Lê Thị M, sinh năm 1986; con: Có 03 con, lớn nhất 15 tuổi, nhỏ nhất 08 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 16/02/2022, đến ngày 04/5/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Bảo lĩnh cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

3. Võ P, sinh ngày 12/8/1989 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện G, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ C (đã chết) và bà: Trương Thị T, sinh năm 1956; vợ: Bùi Thị Đ, sinh năm 1991; con: Có 02 con, lớn nhất 08 tuổi, nhỏ nhất 04 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 16/02/2022, đến ngày 04/5/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Bảo lĩnh cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Văn Ti thuộc diện người khuyết tật có khó khăn về tài chính: Bà Bùi Thị X, Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ ngày 15/02/2022, Võ Văn T, Trương Huy B và Võ P cùng trú tại thôn T, xã H, huyện G, tỉnh Quảng Trị rủ nhau đi chôn cọc bê tông làm hàng rào thuê tại khu vực rừng keo tràm ở xã V, huyện V, tỉnh Quảng Trị của hộ gia đình ông Bùi Văn Q (tên thường gọi là K). Quá trình làm việc, các bị cáo phát hiện 01(một) quả bom dài 1,2 mét, đường kính 0,406 mét, cả ba thống nhất với nhau đào bom lên rồi di chuyển đến nơi khác kín đáo hơn nhằm tiến hành tháo bom, tìm người bán. B và P đào bom, còn T về nhà mình lấy xe kéo tự chế, búa, dây thừng, đục, xà beng, rồi quay trở lại cùng với B, P đưa quả bom lên xe kéo, T trực tiếp điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS)74B1-144.90 của T kéo xe kéo, B và P đi xe mô tô theo sau hỗ trợ vận chuyển đến khu vực rừng tràm thuộc bản C, xã K, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Tại đây, do xe kéo bị hỏng nên các bị cáo thống nhất đem quả bom cất giấu dưới mương cạn trong rừng tràm, cách vị trí phát hiện quả bom khoảng 05km. Đến khoảng 03 giờ ngày 16/02/2022, T điều khiển xe mô tô BKS 74B1-187.69 của B kéo xe kéo về nhà mình, còn P và B ở lại tiếp tục cất giấu quả bom thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang. Võ Văn T sau đó cũng bị bắt giữ theo Lệnh bắt khẩn cấp.

Tại Bản kết luận giám định số 252/KL-KTHS-CN ngày 22/02/2022, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: Mẫu vật cần giám định ký hiệu A là vũ khí quân dụng, loại Bom hạng nặng ký hiệu M117 (loại 750LBS).

Mẫu ký hiệu A được lắp đặt hai ngòi nổ ở phần đầu và phần đuôi, hình dạng, kích thước đang nguyên vẹn nên vẫn còn nguy cơ mất an toàn cao.

Về vật chứng: Cơ quan An ninh điều tra đã thu giữ:

1.01 (một) quả bom có chiều dài 1,2 mét, đường kính 0,406 mét;

2.01 (một) xe mô tô BKS 60L5- 5928, nhãn hiệu SUPERDREAM, số khung: VMXPCG0011U 302490, số máy: VTRDY150FMG *80302490*, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.

3.01 (một) giấy đăng ký mô tô, xe mô tô số 0027398 mang tên Nguyễn Văn Q, biển số: 60L5-5928.

4. 01 (một) xe mô tô BKS 74B1-144.90, nhãn hiệu HONDA DREAM , số khung: HS1FD41A7Y1007111, số máy: CF100E005411, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

5. 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe mô tô số: 004272 mang tên Võ Văn T, biển số đăng ký: 74B1-144.90.

6. 01 (một) xe mô tô BKS 74B1-187.69 nhãn hiệu HONDA BLADE, màu đỏ đen, số khung: RLHJA3643GY117483, số máy: JA36E-0613726, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.

7. 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe mô tô 010990 mang tên Trương Huy B, biển số đăng ký: 74B1- 187.69 .

8. 01(một) xe kéo hai bánh tự chế đã cũ.

9. 01 (một) điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu vàng, số seri:

353508023043719, gắn sim Viettel có số seri: 8984048000327439951, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

10. 01 (một) điện thoại IPHONE7 PLUS màu xám số IMEI:

359477085409230, gắn sim Vinaphone có số seri: 89840200010827552266, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

11. 01 (một) điện thoại SAMSUNG GALAXY A20S màu xanh, số IMEI 1:

358244107900310, số IMEI 2: 358245107900317, gắn sim Viettel có số seri:

8984048841007937405, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

12. 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, số seri 1:

352885100180031, số seri 2: 352885101180030, gắn sim Vinaphone có số seri:

89840200011117752947, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

13. 01 (một) bao lác màu xanh, bên trong có 02 dây thừng, 02 dây cao su, trong đó 01 dây cao su nối với 01 dây curoa, đã qua sử dụng.

14. 01 (một) xà beng kim loại dài 105cm, đường kính 2,5cm, một đầu tròn, một đầu dẹt, đã qua sử dụng.

15. 01 (một) xà beng kim loại dài 127cm, đã qua sử dụng.

16. 01 (một) búa dài 80cm, phần đầu bằng kim loại gắn liền với cán bằng gỗ. Ngày 02/3/2022, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Quảng Bình ra quyết định xử lý vật chứng đối với 01 quả bom có chiều dài 1,2 mét, đường kính 0,406 mét, bằng hình thức: Tiêu hủy.

Tại bản cáo trạng số: 43/CT-VKSQB-P1 ngày 24/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình truy tố các bị cáo Võ Văn T, Trương Huy B và Võ P về tội "Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự. Qua tranh luận tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, nhất trí như quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 304; các điểm s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự (riêng T áp dụng thêm điểm p khoản 1 Điều 51 BLHS) để xử phạt đối với các bị cáo Võ Văn T từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng; xử phạt bị cáo Trương Huy B và Võ P mức án từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng; về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, các điểm a, c khoản 2, các điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử:

+Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu vàng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen.

- 01(một) xe kéo hai bánh tự chế đã cũ.

- 01 (một) xà beng kim loại dài 105cm, đường kính 2,5cm, một đầu tròn, một đầu dẹt, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bao lác màu xanh, bên trong có 02 dây thừng, 02 dây cao su, trong đó 01 dây cao su nối với 01 dây curoa, đã qua sử dụng.

+Trả lại cho Võ Văn T - 01 (một) xe mô tô BKS 74B1-144.90 - 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe mô tô số: 004272 mang tên Võ Văn T, biển số đăng ký: 74B1-144.90 - 01 (một) xà beng kim loại dài 127cm, đã qua sử dụng.

- 01 (một) búa dài 80cm, phần đầu bằng kim loại gắn liền với cán bằng gỗ.

+ Trả lại cho Trương Huy B - 01 (một) xe mô tô BKS 74B1-187.69 - 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe mô tô 010990 mang tên Trương Huy B, biển số đăng ký: 74B1- 187.69 - 01 (một) điện thoại IPHONE7 PLUS màu xám

+ Trả lại cho Võ P

- 01 (một) xe mô tô BKS 60L5- 5928.

- 01 (một) giấy đăng ký mô tô, xe mô tô số 0027398 mang tên Nguyễn Văn Q, biển số: 60L5-5928.

- 01 (một) điện thoại SAMSUNG GALAXY A20S màu xanh.

Người bào chữa cho bị cáo Võ Văn T, trình bày lời bào chữa cho bị cáo với nội dung: Nhất trí như bản Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo Võ Văn T, đồng thời phân tích thêm về điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, mức độ nhận thức pháp luật của bị cáo T: Gia đình bị cáo T có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Bản thân bị cáo là người khuyết tật nặng, bị cắt một thùy phổi năm 2019 và hiện nay đang bị bệnh hiểm nghèo ung thư phổi đang theo dõi điều trị. Vợ chồng bị cáo đang nuôi 03 con nhỏ, trong đó con đầu cũng bị khuyết tật nặng, hai bố con được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, gia đình thuộc diện hộ nghèo của xã H, huyện G; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra, truy tố, bị cáo luôn thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo T tại các điểm s, t, p khoản 1 Điều 51 để giảm nhẹ cho bị cáo mức án nhẹ nhất và có thể được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 29 của Bộ luật Hình sự, để miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, vì người phạm tội đang mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn gây nguy hiểm cho xã hội nữa. Về án phí, bị cáo thuộc hộ nghèo của xã H năm 2022 và đã có đơn xin miễn án phí nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để miễn án phí cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Quảng Bình, Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Chứng cứ xác định có tội và điều luật áp dụng:

Tại phiên tòa, các bị cáo Võ Văn T, Trương Huy B và Võ P đều khai nhận tất cả hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng. Các Bị cáo đều khai, ngày 15/02/2022, các bị cáo đi chôn cọc bê tông làm hàng rào thuê cho anh Q (tên thường gọi là K), trong quá trình đào hố để chôn cọc có phát hiện một quả bom, cả ba đều thống nhất đào bom lên đưa đi nơi khác kín đáo tránh sự phát hiện của người khác, để tháo bom bán thuốc nổ và sắt kiếm tiền nhưng khi chuyển bom đến địa bàn xã K, huyện L thì thấy bom có 02 ngòi nổ nên chưa giám tháo và đem cất giấu thì bị lực lượng tuần tra phát hiện bắt quả tang. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Quảng Bình đã thu thập, đủ cơ sở kết luận: Ngày 15/02/2022, Võ Văn T, Trương Huy B và Võ P là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc vận chuyển trái phép bom (vũ khí quân dụng) là nguy hiểm, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì vụ lợi cá nhân, các bị cáo đã cùng tiếp nhận mục đích gây án của nhau ngay khi phát hiện quả bom nên đã cố ý cùng nhau thực hiện hành vi vận chuyển trái phép 01(một) quả bom có chiều dài 1,2 mét, đường kính 0,406 mét từ địa bàn xã V, huyện V, tỉnh Quảng Trị đến địa bàn xã K, huyện L, tỉnh Quảng Bình để cất giấu. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự. Điều khoản có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý vũ khí quân dụng của Nhà nước, xâm phạm trật tự, an toàn công cộng. Đây là vụ án đồng phạm nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ nên không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Tuy bị cáo T là người thực hành tích cực hơn các đồng phạm, T là người phát hiện có một vật thể bằng kim loại, T gọi B và P đến xem, các bị cáo đều nghi là bom và đồng tình lấp lại chờ khi vắng người mới đào tiếp. Khi bắt đầu vào đào thì cả ba thống nhất, do T sức khỏe kém nên cho T về nhà lấy dụng cụ tháo bom, còn B và P trực tiếp đào, sau khi đào bom lên, cả ba bốc bom lên xe kéo, T là người trực tiếp điều khiển xe mô tô chở bom, B và P chạy xe theo sau để hỗ trợ nhưng tất cả đều có cùng mục đích đưa bom đến nơi khác kín đáo để tháo bom ra bán thuốc nổ và bán sắt kiếm tiền, khi chưa tháo được bom đang cất giấu thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang.

[4]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra vụ án cũng như xét hỏi tại phiên tòa, các bị cáo đều tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án được Cơ quan An ninh điều tra ghi nhận và đề nghị áp dụng, thể hiện trong bản kết luận điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình cũng đề nghị áp dụng, thể hiện tại bản Cáo trạng cũng như trong phần luận tội của kiểm sát viên; về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng; hoàn cảnh gia đình các bị cáo đều khó khăn, đặc biệt gia đình Võ Văn T thuộc diện hộ nghèo, bản thân bị cáo và con trai đều bị khuyết tật nặng, hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng của nhà nước, bị cáo đã bị phẫu thuật cắt một thùy phổi và hiện nay đang theo dõi điều trị bệnh u phổi. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo T tại các điểm s, t và p khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo B và P tại các điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, đồng thời chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà cần áp dụng thêm Điều 65 của Bộ luật hình sự để cho các bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương, tạo điều kiện cho các bị cáo có cơ hội khắc phục, sửa chữa bản thân trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, nhất là tạo điều kiện cho bị cáo T có thời gian được tiếp tục điều trị bệnh. Tuy nhiên, người bào chữa cho bị cáo T có quan điểm, nếu có thể được thì đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo T. Hội đồng xét xử thấy, người bào chữa cho bị cáo T đưa ra lý do đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo T không phù hợp, vì trong khi phạm tội, bị cáo cũng đã bị bệnh và hiện tại bị cáo vẫn đi lại, sinh hoạt bình thường; các tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử đã áp dụng để xem xét, cân nhắc mức án thỏa đáng đối với bị cáo T là phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[5].Về vật chứng: Các vật chứng Cơ quan Anh ninh điều tra đã tạm giữ. Ngày 02/3/2022, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Quảng Bình đã quyết định xử lý vật chứng đối với một quả bom có chiều dài 1,2 mét, đường kính 0,406 mét bằng hình thức: Tiêu hủy. Số còn lại đang tạm giữ: Hội đồng xét xử thấy: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu vàng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, 01(một) xe kéo hai bánh tự chế, 01 (một) xà beng kim loại dài 105cm, đường kính 2,5cm, một đầu tròn, một đầu dẹt, là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; 01 (một) bao lác màu xanh, bên trong có 02 dây thừng, 02 dây cao su, trong đó 01 dây cao su nối với 01 dây curoa, là công cụ phạm tội nhưng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; 01 xe mô tô BKS 74B1- 144.90 và giấy đăng ký xe mô tô của T và 01 xe mô tô BKS 74B1-187.69 và giấy đăng ký xe mô tô của B đã sử dụng làm phương tiện phạm tội nhưng là tài sản chung của vợ chồng T và vợ chồng B, vợ của T là Nguyễn Thị Th và vợ của B là Lê Thị M có đơn xin được nhận lại. Hội đồng xét xử thấy, đây là phương tiện phạm tội nhưng là tài sản chung của vợ chồng T và vợ chồng B, đồng thời là phương tiện kiếm sống của gia đình các bị cáo nên cần trả lại 02 xe mô tô kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô cho T và B; 01 xe mô tô BKS 60L5-5928 và giấy đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Văn Q là tài sản ông Q đã cho vợ chồng P, 01 xà beng kim loại, 01 búa dài 80cm của T; 01 (một) điện thoại IPHONE7 PLUS màu xám của B; 01 (một) điện thoại SAMSUNG GALAXY A20S màu xanh của P, không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.

[7].Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Riêng bị cáo Võ Văn T thuộc diện hộ nghèo và người khuyết tật đã có đơn xin miễn án phí nên cần chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo, miễn án phí cho bị cáo theo Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8].Về quyền kháng cáo: Các bị cáo quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Võ Văn T, Trương Huy B và Võ P phạm tội Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng.

Căn cứ khoản 1 Điều 304, các điểm s, t, p khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Võ Văn T 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án (11/7/2022).

Căn cứ khoản 1 Điều 304, các điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Trương Huy B 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, kể từ ngày tuyên án (11/7/2022).

+ Xử phạt bị cáo Võ P 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án (11/7/2022).

Giao các bị cáo Võ Văn T, Trương Huy B và Võ P cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục, gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2, các điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu vàng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen.

- 01(một) xe kéo hai bánh tự chế, đã qua sử dụng.

- 01 (một) xà beng kim loại dài 105cm, đường kính 2,5cm, một đầu tròn, một đầu dẹt, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bao lác màu xanh, bên trong có 02 dây thừng, 02 dây cao su, trong đó 01 dây cao su nối với 01 dây curoa.

+Trả lại cho Võ Văn T

- 01 (một) xe mô tô BKS 74B1-144.90 nhãn hiệu HONDA DREAM

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe mô tô số: 004272 mang tên Võ Văn T, biển số đăng ký: 74B1-144.90

- 01 (một) xà beng kim loại dài 127cm, đã qua sử dụng.

- 01 (một) búa dài 80cm, phần đầu bằng kim loại gắn liền với cán bằng gỗ.

+ Trả lại cho Trương Huy B

- 01 (một) xe mô tô BKS 74B1-187.69 nhãn hiệu HONDA BLADE

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe mô tô 010990 mang tên Trương Huy B, biển số đăng ký: 74B1- 187.69

- 01 (một) điện thoại IPHONE7 PLUS màu xám

+ Trả lại cho Võ P - 01 (một) xe mô tô BKS 60L5- 5928, nhãn hiệu SUPER DREAM - 01 (một) giấy đăng ký mô tô, xe mô tô số 0027398 mang tên Nguyễn Văn Q, biển số: 60L5-5928.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY A20S màu xanh.

(Tất cả có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan An ninh điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy ngày 02/6/2022.

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trương Huy B và bị cáo Võ P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi người 200.000 đồng. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Võ Văn T.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/7/2022, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về