Bản án về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới số 74/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 74/2023/HS-ST NGÀY 29/06/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA QUA BIÊN GIỚI

Ngày 29 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 61/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:

Hồ Ngọc T, sinh ngày 18/11/1986, tại thị xã T, tỉnh An Giang; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khóm T, phường N, thị xã T, tỉnh An Giang, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: kinh, tôn giáo: không, trình độ học vấn: 9/12, nghề nghiệp: làm thuê; họ tên cha: Hồ Ngọc L, sinh năm 1954, họ tên mẹ Nguyễn Thị N, sinh năm 1958; vợ: Trần Thị H, sinh năm 1988, con có 02 người, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2012.

- Tiền án, tiền sự: không - Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2022 đến ngày 15/12/2022 được tại ngoại, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Phạm Thanh T1, sinh ngày 13/02/1980, tại thị xã T, tỉnh An Giang; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khóm T, phường N, thị xã T, tỉnh An Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: làm thuê; họ tên cha: Phạm Duy M, sinh năm 1952, họ tên mẹ: Nguyễn Thị NI, sinh năm 1957; vợ: Phạm Kim Đ, sinh năm 1981, con có 02 người, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2008.

- Tiền án, tiền sự: không.

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2022 đến ngày 15/12/2022 được tại ngoại, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Võ Văn H1, sinh ngày 17/4/1995, tại thành phố C, tỉnh An Giang; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: ấp B, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: làm thuê; họ tên cha: Võ Văn V (đã chết), họ tên mẹ: Lê Thị Mỹ L1, sinh năm 1973; vợ: Cao Thị Ngọc T2, sinh năm 1997 (đã ly hôn), con có 02 người, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2020.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2022 đến ngày 15/12/2022 được tại ngoại, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa v liên quan:

- Châu Oanh N2 (Meas Phi R), sinh năm 1990, nơi cư trú: xã C, huyện B, tỉnh Tà Keo, Vương quốc C; vắng mặt.

- Tạ Văn T3, sinh năm 1975, nơi cư trú: Tổ H, ấp B, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang; có mặt.

- Lê Thanh N3, sinh năm 1979, nơi cư trú: Tổ H, ấp B, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang; có mặt.

- Lê Thanh T4, sinh năm 1981, nơi cư trú: Tổ H, ấp B, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang; có mặt.

Người làm chứng:

- Néang Chanh T5, sinh năm 1987; có mặt.

- Nguyễn Hữu A, sinh năm 1982; vắng mặt.

- Nguyễn Hữu T6, sinh năm 1982; vắng mặt.

- Nguyễn Lê Hồng P, sinh năm 1982; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 19/9/2022, lực lượng phối hợp Đồn Biên phòng V1 và Phòng phòng chống ma túy, tội phạm Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh A tuần tra, đến khu vực Biên giới Việt Nam - Campuchia, tổ H, ấp B, xã V, thành phố C, phát hiện Hồ Ngọc T, Phạm Thanh T1 đang điều khiển vỏ lãi trên cánh đồng ngập nước mùa nước nổi, hướng từ Việt Nam sang V Campuchia, có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 150 bao phân bón (94 bao phân bón DAP Philippines 18-46, 56 bao phân bón đạm Cà Mau) không khai báo hải quan, không trình báo cơ quan chức năng theo quy định. Cùng lúc, Tổ công tác khác thuộc Đồn Biên phòng V1 và Phòng phòng chống ma túy, tội phạm Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh A kiểm tra tại B, tổ G, ấp B, xã V, thành phố C, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của Võ Văn H1 19 bao phân bón DAP Philippines 18-46. T, T1, H1 khai 169 bao phân bón các loại, do T thuê T1, H1 vận chuyển qua biên giới, sang V Campuchia, giao cho Châu Oanh N2 (sống tại Campuchia) để được hưởng tiền công vận chuyển.

Quá trình điều tra, xác định: Châu Oanh N2 có quốc tịch Việt Nam, sinh sống cùng gia đình vợ tại xã C, huyện B, tỉnh Tà Keo, Vương quốc Campuchia. Ngày 15/9/2022, do cần mua phân bón với số lượng lớn từ Việt Nam mang sang Campuchia để phục vụ việc trồng lúa của gia đình, N2 điện thoại kêu Hồ Ngọc T tìm hiểu về thủ tục vận chuyển phân bón qua biên giới, T nói dối là đã xin phép Bộ vận chuyển phân bón qua biên giới, phải đóng lệ phí 40.000 đồng/bao; tin thật, N2 đồng ý thuê T vận chuyển phân bón qua biên giới Campuchia, phí vận chuyển 50.000 đồng/bao phân (gồm tiền đóng lệ phí 40.000 đồng/bao và tiền công 10.000 đồng/bao). Ngay sau đó, N2 liên hệ với Công ty cổ phần Pl, ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang, đặt mua 475 bao phân bón các loại, thỏa thuận giao cho Hồ Ngọc T trực tiếp nhận toàn bộ số phân bón tại B, tổ G, ấp B, xã V, thành phố C, vận chuyển qua biên giới Campuchia giao cho N2. Khoảng 09 giờ ngày 19/9/2022, Nguyễn Lê Hồng P (Nhân viên Công ty P1) điều khiển xe ô tô tải biển số 67C-051.55 vận chuyển giao cho T 160 bao phân bón đạm Cà Mau, T thuê người nam thanh niên tên Q (không rõ lai lịch) dùng vỏ lãi vận chuyển 150 bao sang V Campuchia giao trước cho N2. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Công ty P1 tiếp tục giao thêm 159 bao phân bón các loại (46 bao phân bón Đạm C, 113 bao phân bón DAP Philippines 18-46), cộng với 10 bao phân bón đạm Cà Mau còn tồn chuyến trước, nâng tổng số 169 bao; T thỏa thuận với T1, H1 vận chuyển toàn bộ số phân bón còn lại giao cho N2, T1 được trả công 10.000 đồng/bao, H1 được trả công 300.000 đồng, T1, H1 đồng ý. Khi T1, T đang vận chuyển 150 bao phân bón, H1 đang nhận vận chuyển 19 bao phân và đang chờ nhận thêm số phân bón còn lại mà Công ty P1 chuẩn bị giao để vận chuyển sang Campuchia giao cho N2 thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 03 vỏ lãi composite nhãn hiệu Thành Tân các kích thước (4.9 x 0.9)m và (8.7 x 1.1)m; 02 máy nhãn hiệu Honda 13 HP, Mitsubishi 9,0 HP; 01 máy nổ, không rõ nhãn hiệu; 03 điện thoại di động, các nhãn hiệu Nokia 105 4G, 01, Samsung Galaxy A22 5G; 113 bao phân bón DAP Philippines 18-46, trọng lượng mỗi bao 50kg; 56 bao phân bón đạm Cà Mau, mỗi bao trọng lượng 50kg; 01 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 08 hóa đơn giá trị gia tăng 01 đơn đặt hàng ngày 15/9/2022, 01 biên bản xác nhận nợ, 03 phiếu xuất kho ngày 19/9/2022 của Công ty P1 với khách hàng tên Châu Quanh Na .

Căn cứ các Kết luận định giá tài sản số 578 ngày 22/9/2022, số 850 ngày 01/12/2022 của Hội đồng Định giá tài sản trong t tụng hình sự thành phố C, ghi nhận: 113 bao phân bón nhãn hiệu DAP Philippines 18-46, trọng lượng mỗi bao 50kg, trị giá 107.350.000 đồng; 56 bao phân bón đạm Cà Mau, mỗi bao trọng lượng 50kg, trị giá 46.200.000 đồng; 150 bao phân bón đạm Cà Mau, mỗi bao trọng lượng 50kg, trị giá 123.750.000 đồng. Tổng trị giá 277.300.000 đồng.

Căn cứ Biên bản xác định vị trí bắt quả tang Hồ Ngọc T, Phạm Thanh T1, Võ Văn H1 vận chuyn trái phép hàng hóa qua biên giới ngày 19/9/2022, ghi nhn: Thời điểm kiểm tra, bắt quả tang người và tang vật thuộc khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia, phía Việt Nam.

Ngày 23/9/2022 Đồn Biên phòng V1 thuộc Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh A Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 03, về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”, quy định tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự;

Ngày 28/9/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố C Quyết định khởi tố bị can số 145, 146, 147 đối với Hồ Ngọc T, Phạm Thanh T1, Võ Văn H1, về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”, quy định tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự;

Cáo trạng số 61/CT-VKSCĐ-HS ngày 24/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Châu Đốc đã truy tố bị cáo Hồ Ngọc T, Phạm Thanh T1, Võ Văn H1, về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”, quy định tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa, Các bị cáo T, T1, H1 thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội nhu nội dung Cáo trạng truy tố; lời nói sau cùng, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Căn cứ lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai những người làm chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định bị cáo T, T1, H1 đã có hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới với giá trị 277.300.000 đồng. Do vậy, Cáo trạng số 61/CT-VKSCĐ- HS ngày 24/5/2023 của VKSND thành phố Châu Đốc truy tố bị cáo T, T1, H1, về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”, theo điểm a khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về nhân thân và lý lịch xác định các bị cáo không tiền án, tiền sự; cùng tham gia vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới nên phát sinh vai trò đồng phạm giản đơn, không có sự câu kết chặt chẽ trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Hồ Ngọc T là người chủ mưu có vai trò chính, trực tiếp thỏa thuận, nhận vận chuyển 475 bao phân bón các loại cho Châu O Na qua biên giới Campuchia, có vai trò chính, phải có mức hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo đồng phạm khác trong vụ án.

Đối với bị cáo Phạm Thanh T1, Võ Văn H1 tham gia với vai trò đồng phạm là người thực hành, giúp sức; khi được T thỏa thuận thuê bị cáo T1, H1 cùng vận chuyển toàn bộ số phân bón còn lại, bị cáo T1 được trả công 10.000 đồng/bao, bị cáo H1 được trả công 300.000 đồng. Lẽ ra, các bị cáo là người dân sinh sống tại vùng biên giới, buộc phải biết hành vi vận chuyển hàng hóa qua biên giới là vi phạm pháp luật, phải từ chối, nhưng các bị cáo chỉ vì hám lợi, đã đồng ý giúp sức cho bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, các bị cáo T1, H1 phải chịu trách nhiệm hình sự chung với bị cáo T đối với số hàng hóa bị bắt quả tang, thu giữ 169 bao phân các loại, trị giá 153.000.000 đồng.

Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, xác định bị cáo thuộc thuộc thành phần nhân dân lao động, học lực thấp, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế, được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”; các bị cáo T, T1 có người thân thích là người có công cách mạng, quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt chính:

- Áp dụng khoản 1 Điều 189; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Ngọc T mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù; Phạm Thanh T1 mức án từ: 06 tháng đến 09 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 189; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Văn H1 mức án 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách 12 tháng.

Giao bị cáo Võ Văn H1 cho Ủy ban nhân dân xã V, thành phố C, tỉnh An Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách án treo.

Về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2022 đến ngày 15/12/2022 (02 tháng 28 ngày) * Về Hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không nghề nghiệp ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

b) Xử lý vật chứng:

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 08 hóa đơn giá trị gia tăng 01 đơn đặt hàng ngày 15/9/2022, 01 biên bản xác nhận nợ, 03 phiếu xuất kho ngày 19/9/2022 của Công ty P1 với khách hàng tên Châu Oanh Na.

- Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Tạ Văn T3, Lê Thanh N3, Lê Thanh T4 03 vỏ lãi composite nhãn hiệu Thành Tân các kích thước (4.9 x 0.9)m và (8.7 x 1.1) m; 02 máy nhãn hiệu Honda 13 HP, Mitsubishi 9,0 HP; 01 máy nổ, không rõ nhãn hiệu;

- Trả lại cho Châu Q1 Na 113 bao phân bón DAP Philippines 18-46, trọng lượng mỗi bao 50kg; 56 bao phân bón đạm Cà Mau, mỗi bao trọng lượng 50kg.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 02 điện thoại di động, các nhãn hiệu Nokia 105 4G, O1;

- Tiếp tục tạm giữ điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A22 5G để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

[1] Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại gì đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Về nội dung:

[3] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo T, T1, H1 đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nhu nội dung Cáo trạng đã nêu trên. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Các bị cáo T, T1, H1 đã có hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới Việt Nam - Campuchia, số lượng 319 bao phân bón các loại DAP Philippines 18-46, đạm Cà Mau, tổng trị giá 277.300.000 đồng. Trong đó, T thuê Phạm Văn T7, Võ Văn H1 cùng vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới Việt Nam - Campuchia, số lượng 169 bao phân bón các loại DAP Philippines 18-46, đạm Cà Mau, trị giá 153.550.000 đồng. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước; nên đã đủ yếu tố cấu thành tội Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo khoản 1 Điều 189 Bộ luật hình sự.

Về vai trò đồng phạm, các bị cáo T, T7, H1 cùng tham gia vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới nên phát sinh vai trò đồng phạm, nhưng tính chất giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Hồ Ngọc T là người chủ mưu có vai trò chính, phải có mức hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo đồng phạm khác trong vụ án so với bị cáo Phạm Thanh T1, Võ Văn H1 tham gia với vai trò đồng phạm là người thực hành, giúp sức.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Hàng hóa khi được vận chuyển qua biên giới hoặc khu phi thuế quan vào nội địa phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật Việt Nam về khai báo hải quan. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo Hồ Ngọc T, Phạm Thanh T1, Võ Văn H1 là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, buộc các bị cáo phải biết các quy định pháp luật khi vận chuyển hàng hóa qua biên giới; nhưng các bị cáo cố ý không tuân thủ các quy định của Nhà nước về trách nhiệm, nghĩa vụ của người vận chuyển hàng hóa qua biên giới như không khai báo hải quan, lén lút dùng phương tiện đi bằng đường không chính ngạch nhằm mục đích vụ lợi, có tiền tiêu xài cá nhân.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Không.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 08 hóa đơn giá trị gia tăng 01 đơn đặt hàng ngày 15/9/2022, 01 biên bản xác nhận nợ, 03 phiếu xuất kho ngày 19/9/2022 của Công ty P1 với khách hàng tên Chau Quanh N4 do đây là các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, xét tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với 03 vỏ lãi composite nhãn hiệu Thành Tân các kích thước (4.9 x 0.9)m và (8.7 x 1.1)m; 02 máy nhăn hiệu Honda 13 HP, Mitsubishi 9,0 HP; 01 máy nổ, không rõ nhãn hiệu; qua điều tra xác định của Tạ Văn T3, Lê Thanh N3, Lê Thanh T4 cho T, H1 mượn nhưng không biết các bị cáo dùng vào việc phạm tội, xin nhận lại vỏ lãi, máy nổ gắn động cơ để phục vụ sinh hoạt. Xét yêu cầu này có căn cứ, đúng luật định nên đề nghị xem xét trả lại theo yêu cầu.

- Đối với 113 bao phân bón DAP Philippines 18-46, trọng lượng mỗi bao 50kg; 56 bao phân bón đạm Cà Mau, mỗi bao trọng lượng 50kg; được Châu Oanh N xin nhận lại để phục vụ canh tác nông nghiệp. Xét số phân bón trên của Châu Oanh N mua của Công ty P1 có hóa đơn, chứng từ hợp pháp; khi thuê T vận chuyển qua biên giới, N4 có yêu cầu T xin phép Bộ để được hướng dẫn trình tự, thủ tục vận chuyển phân bón qua biên giới theo quy định pháp luật Việt Nam. Do T nói dối, N4 không biết T vận chuyển trái phép. Vì vậy, Châu Oanh N2 không có lỗi trong việc giao tài sản cho T vận chuyển qua biên giới, yêu cầu của N2 là có căn cứ, trả lại cho N2.

- Đối với 02 điện thoại di động, các nhãn hiệu Nokia 105 4G, OPPO Reno2 F thu giữ của các bị cáo Hồ Ngọc T, Phạm Thanh T1 dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước;

- Đối với điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A22 5G thu giữ của bị cáo Võ Văn H1, dùng liên lạc gia đình, không liên quan việc phạm tội, xét trả lại cho bị cáo H1 nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.

[8] Các vấn đề khác: Đối với: Châu Oanh N2 khi thuê Hồ Ngọc T vận chuyển phân bón từ Việt Nam sang Campuchia, có yêu cầu T trình báo cơ quan chức năng, nhưng T không thực hiện, bị bắt giữ quả tang, tuy không xử lý, nhưng cần giáo dục công khai tại phiên tòa; người tên Q (giúp T vận chuyển 150 bao phân bón), sinh sống tại V Campuchia, Cơ quan điều tra không điều kiện xác minh.

[9] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Hồ Văn T8, Phạm Thanh T1, Võ Văn H1 đồng phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 189; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, 58, 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

X pht: Hồ Văn T8: 09 (chín) tháng tù và Phạm Thanh T1: 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt chấp hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giam (từ ngày 19/9/2022 đến ngày 15/12/2022) (02 tháng 28 ngày).

Căn cứ khoản 1 Điều 189; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Võ Văn H1: 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách của bị cáo H1 là 12 tháng kể từ ngày tuyên án (29/6/2023).

Giao bị cáo Võ Văn H1 cho Ủy ban nhân dân xã V, thành phố C, tỉnh An Giang để giám sát, giáo dục và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian bị cáo thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, 08 hóa đơn giá trị gia tăng 01 đơn đặt hàng ngày 15/9/2022, 01 biên bản xác nhận nợ, 03 phiếu xuất kho ngày 19/9/2022 của Công ty P1 với khách hàng tên Châu Oanh Na .1 - Trả lại cho Tạ Văn T3, Lê Thanh N3, Lê Thanh T4 03 vỏ lãi composite nhãn hiệu Thành Tân các kích thước (4.9 x 0.9)m và (8.7 x 1.1) m; 02 máy nhãn hiệu Honda 13 HP, Mitsubishi 9,0 HP; 01 máy nổ, không rõ nhãn hiệu;

- Trả lại cho Châu O Na 113 bao phân bón DAP Philippines 18-46, trọng lượng mỗi bao 50kg; 56 bao phân bón đạm Cà Mau, mỗi bao trọng lượng 50kg.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 02 điện thoại di động, các nhãn hiệu Nokia 105 4G, O1;

- Tiếp tục tạm giữ điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A22 5G để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02 tháng 11 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố C với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Châu Đốc).

Căn cứ vào Điều 135, 136 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo T8, T1, H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

(Đã giải thích án treo cho bị cáo Võ Văn H1)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới số 74/2023/HS-ST

Số hiệu:74/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Châu Đốc - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về