Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 979/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DẤN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 979/2023/HS-PT NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh L, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 745/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo: Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ M phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Do có kháng cáo của các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ Mạnh L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2023/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1554/2023/QĐPT-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Phan Cao D, sinh ngày 10/3/1995, tại tỉnh T.

Nơi thường trú trước khi bị bắt: Tổ dân phố K, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Cao T1 và bà Nguyễn Thị H; Có vợ là Phạm Thị M (đã ly hôn năm 2020) và 01 con sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).

2. Nhữ Thị Ánh D1, sinh ngày 10/8/1989 tại tỉnh L.

Nơi thường trú trước khi bị bắt: Thôn A xã L, huyện Đ, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nhữ Xuân T2 và bà Nguyễn Thị Hồng V; Có chồng là Nguyễn Quốc D2 và 03 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).

3. Nguyễn Trọng T, sinh ngày 18/4/1981 tại Thành phố H.

Nơi thường trú trước khi bị bắt: Tổ C phường P, quận L, Thành phố H; Nghề nghiệp: Tao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trọng C và bà Nguyễn Thị T3 (đã chết); Có vợ là Đỗ Thị Thu T4 và 03 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).

4. Nhữ Mạnh L, sinh ngày 10/8/1992 tại tỉnh L.

Nơi thường trú trước khi bị bắt: Khu phố V, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nhữ Xuân T2 và bà Nguyễn Thị Hồng V; Có vợ là Trần Thị Quỳnh N và 01 con sinh năm 2013; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 34/2019/HS-ST ngày 06/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh L xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong hình phạt tù 18/01/2020.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).

Những người tham gia tố tụng khác:

Người bào chữa cho bị cáo Phan Cao D: Luật sư Huỳnh T5, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nh Thị Ánh D1: Luật sư Nguyễn Văn H1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trọng T: Luật sư Trương Phúc Â, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nhữ Mạnh L: Luật sư Trần Thị H2, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và din biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 20 phút ngày 17/12/2021, tại trước số nhà B đường H, Phường D, thành phố Đ, tỉnh L, tổ công tác của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ C2 phối hợp các lực lượng chức năng đã phát hiện bắt quả tang Nhữ Mạnh L đang vận chuyển 01 thùng cát tông bằng xe mô tô, bên trong thùng có 11 túi nylon (trong đó có 09 túi nylon lớn và 02 túi nylon nhỏ) bên ngoài in chữ nước ngoài, nhiều màu sắc như đỏ, đỏ thẫm, bên trong đều chứa nhiều viên nén màu hồng, hình chữ nhật, có in chữ Red Bull (test nhanh cho kết quả dương tính với chất ma túy MDMA). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nhữ Mạnh L, thu giữ và niêm phong vật chứng. Ngay sau khi bị bắt, Nhữ Mạnh L khai đi nhận thùng hàng có chứa ma túy được gửi từ nước ngoài về Việt Nam, sau đó mang về nhà cất giấu để gửi đi cho khách theo chỉ đạo của chị gái ruột là Nhữ Thị Ánh D1.

Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ C2 đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nhữ Thị Ánh D1, Nguyễn Trọng T và Phan Cao D. Đồng thời, tiến hành khám xét khẩn cấp tất cả nơi ở của Nhữ Thị Ánh D1. Kết quả khám xét nhà trọ tại đồi số C, tổ C, đường T, Phường F, thành phố Đ, tỉnh L đã thu giữ: 02 túi nylon kích thước khoảng (2 x 3) cm, bên trong có chứa chất tinh thể trong suốt, 05 túi nylon kích thước khoảng (08 x 12) cm, bên trong chứa nhiều viên nén hình đầu con thú màu nâu nhạt, 01 túi nylon kích thước khoảng (08 x 12) cm, bên trong chứa nhiều viên nén màu xanh dương hình kim cương đều nghi là ma túy, 01 cân điện tử màu trắng, nhãn hiệu Marlboro cùng một số đồ vật, tài sản khác. Ngay sau khi bị bắt, D1, T và D đã khai nhận cùng với L tham gia vận chuyển trái phép chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 9151/C09-TT2 ngày 18/02/2022 của V1 Bộ C2, kết luận: Các viên nén có chữ Red B thu giữ khi bắt quả tang là ma túy tổng hợp, loại MDMA, tổng khối lượng 16.720,36 gam (khối lượng trung bình 01 viên là 0,443 gam).

Thu giữ khi khám xét gồm: Các viên nén màu nâu nhạt có hình đầu con thú là ma túy tổng hợp, loại MDMA, tổng khối lượng 341,43 gam (khối lượng trung bình 01 viên là 0,481 gam); Các viên nén màu xanh dương có hình viên kim cương là ma túy tổng hợp, loại MDMA, tổng khối lượng 22,03 gam (khối lượng trung bình 01 viên là 0,441 gam); Chất tinh thể màu trắng là ma túy tổng hợp, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 4,31gam (Khối lượng trung bình của 03 loại viên ma túy nêu trên là (0,441g+0,443g+0,481g)/3 = 0,455 gam.

Quá trình điều tra, Nhữ Thị Ánh D1 và Nguyễn Trọng T khai quen biết với Phan Cao D. Khi D vào Đ gặp T và D1 có nói việc D có bạn là Nguyễn Văn Đ là người cùng quê hiện đang ở nước ngoài, có quen biết đối tượng tên nickname là R (người Việt Nam sống ở Hà Lan), D biết thông tin đối tượng này có ma túy tổng hợp muốn gửi về Việt Nam, thuê người nhận và gửi cho người mua ma túy tại Việt Nam, tiền công vận chuyển là 10.000.000 đồng/01kg Ketamine, 10.000.000 đồng/01 gói (1000 viên ma túy tổng hợp). D đã bàn với D1, Tốt việc nhận ma túy gửi từ nước ngoài về, chia ra rồi đóng vào các thùng hàng gửi cho người mua ma túy ở các địa phương theo sự chỉ đạo của R. Tiền công được chia đều cho những người cùng tham gia vận chuyển ma túy trong nhóm ở Việt Nam và Nguyễn Văn Đ ở nước ngoài, bất kể người nào trong nhóm đi nhận và gửi ma túy. Sau khi nghe D nói, D1 và T đều đồng ý tham gia vận chuyển ma túy cùng với D và bạn của D là Nguyễn Văn Đ. Đối tượng R yêu cầu D1, D gửi thông tin người nhận ma túy tại Việt Nam thì D1, T, D đã thống nhất khi ma túy được gửi về H, D chịu trách nhiệm nhận và gửi; Còn khi ma túy gửi về L thì D1 là người chịu trách nhiệm nhận và gửi. D đã gửi thông tin gồm tên, địa chỉ, số điện thoại, ảnh chụp chứng minh nhân dân của D1 và đối tượng tên T6 (là bạn của D) để nhận ma túy tại L và H (T6 quen biết với T và D khi cùng làm nội thất cho các quán Karaoke tại N). Từ tháng 10/2021 đến tháng 12/2021 cả nhóm đã vận chuyển ma túy 03 lần, đến lần thứ 4 bị phát hiện bắt quả tang.

Quá trình điều tra đã xác định được hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:

1. Hành vi vận chuyn trái phép 1.000 gam ma túy loại Ketamine và 4.095 gam ma túy loại MDMA (9.000 viên) của Nh Thị Ánh D1, Phan Cao D và Nguyn Trọng T:

Khoảng giữa tháng 10/2021, D1, T và D đều đang ở thành phố Đ, tỉnh L thì đối tượng có nickname R báo cho D1, D, T đã gửi ma túy về H. D đã nói T6 (là bạn cùng làm nội thất Karaoke cùng D và T) nhận và gửi ma túy cho người mua của R. T6 yêu cầu trả tiền công 50 triệu đồng. Do D1 và D thấy T6 yêu cầu trả tiền công cao nên chưa đồng ý, T6 đã tắt liên lạc. Theo các bị cáo khai do sợ mất ma túy nên T đã nhắn tin Z cho T6 (nick tên Mán T) để T6 yên tâm đi gửi ma túy, không phải lo về tiền công. D đi xe khách ra H để tìm gặp T6 lấy lại và gửi ma túy đi cho khách theo chỉ đạo của R rồi báo cho D1, T biết. Đối tượng R thông báo cho D, sau đó D nói lại cho D1, T biết có 09 túi ma túy (tức 9.000 viên ma túy tổng hợp) và 01 kg Ketamine, tiền công là 100.000.000 đồng chia đều cho D, D1, T và Đ mỗi người 25.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Phan Cao D, Nguyễn Trọng T và Nhữ Thị Ánh D1 khai nhận phù hợp về thời gian, phương thức nhận và gửi ma túy, số lượng ma túy đã vận chuyển, tiền công được nhận, về địa điểm giao nhận ma túy thì các bị cáo khai nhận D có ra H nhưng không gặp T6, ma túy đã được gửi đến cho người mua theo yêu cầu, các bị cáo đã được nhận tiền công, như vậy việc vận chuyển ma túy đã hoàn thành. Do không xác định được đối tượng tên T6; bị cáo D khai không nhận và gửi ma túy nên không xác định được tên, tuổi và địa chỉ của người nhận số ma túy trên. Theo thông tin của đối tượng R báo cho các bị cáo thì số lượng ma túy là 1.000 viên/01 túi. Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm về khối lượng ma túy của 01 viên là trung bình của 03 loại viên ma túy đã thu giữ được trong vụ án là (0,441g+0,443g+0,481g)/3 = 0,455 gam/viên. Theo đó, khối lượng ma túy các bị cáo đã vận chuyển trái phép là 9.000 viên x 0,455 gam/01 viên = 4.095 gam và 1.000 gam Ketamine. T7 lợi bất chính số tiền 100.000.000 đồng.

2. Hành vi vận chuyn trái phép 4.810 gam (10.000 viên) ma túy, loại MDMA của Nhữ Thị Ánh D1, Phan Cao D và Nguyễn Trọng T:

Khoảng cuối tháng 10/2021, đối tượng có nickname R báo cho D1 sẽ gửi ma túy về Đ theo địa chỉ của D1. Ngày 22/10/2021, Công ty vận chuyển hàng gọi báo cho D1 biết có hàng gửi về và sẽ chuyển đến địa chỉ D1 đăng ký người nhận hàng nhưng D1 đã đi taxi đến Công ty B1, địa chỉ đường B, thành phố Đ nhận 02 kiện hàng, tổng khối lượng 27 kg. Khi D1 nhận được thùng hàng thì R gọi yêu cầu D1 chuyển toàn bộ 02 thùng hàng vừa nhận cho khách ở Thành phố H. D1 đã đi taxi đến nhà xe P gửi 02 thùng hàng nêu trên cho người mua ma túy của R có tên là T8, số điện thoại 091326xxxx đến Bưu cục của Công ty p tại B L, Quận E, Thành phố H. Gửi ma túy xong, D1 đã thông báo cho D, T biết. Đối tượng R báo cho D1, D biết số lượng ma túy là 10 túi, tức là 10.000 viên ma túy, tiền công là 100.000.000 đồng, số tiền này được chia đều cho D1, T, D và Đ theo như đã thỏa thuận từ trước, mỗi bị cáo được hưởng lợi 25.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai phù hợp về thời gian, phương thức nhận và gửi ma túy, số lượng ma túy đã vận chuyển, tiền công được thanh toán và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. số lượng các viên ma túy theo thông tin của R báo cho các bị cáo là 1.000 viên/01 túi phù hợp với tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra thu được về nguồn gốc nơi gửi, Công ty B1, người nhận; xác nhận của nhà xe vận chuyển trong nước; đủ căn cứ kết luận các bị cáo đã vận chuyển trái phép 10 túi tương đương 10.000 viên ma túy. Tại hành vi này, Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng là ma túy, các bị cáo không nhìn thấy hình dạng, đặc điểm của các viên ma túy. Bị cáo D1 khai được Rồng thông báo các viên ma túy gửi về lần này có màu nâu hình mặt con thú. Căn cứ Kết luận giám định số 9151/C09-TT2 ngày 18/02/2022 của V1 Bộ C2 xác định viên ma túy màu nâu hình đầu con thú có khối lượng 0,481 gam/viên. Theo đó khối lượng của 10 túi tương đương 10.000 viên là: 10.000 viên x 0,481 gam/viên= 4.810 gam ma túy.

Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, cũng như chứng cứ, tài liệu thu thập được đủ cơ sở kết luận Nhữ Thị Ánh D1, Nguyễn Trọng T, Phan Cao D vận chuyển trái phép 4.810 gam ma túy loại MDMA, thu lợi bất chính 100.000.000 đồng.

3. Hành vi vận chuyn trái phép 46.100 gam (100.000 viên) ma túy, loại MDMA; 4,31 gam Methaphetamine của Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L, Phan Cao D và Nguyễn Trọng T:

Cuối tháng 11/2021, đối tượng R báo cho D, D1 biết đã gửi ma túy về Đ, thông tin người nhận ma túy là D1. Thời điểm này D, T và D1 đều đang ở H nên D1 đã nhờ em trai là Nhữ M đi nhận giúp. Ngày 27/11/2021, L đi xe máy ra kho hàng của Công ty B1 tại đường B, thành phố Đ, tỉnh L nhận 04 kiện hàng, tổng khối lượng 63,5 kg mang về nhà trọ của D1 ở đồi số 3, tổ C, đường T, Phường L, thành phố Đ, tỉnh L. D1 gọi video qua zalo nói L mở các thùng hàng ra, chụp ảnh các gói có in hình là gói cà phê, bánh kẹo và các hộp nhựa trong các thùng hàng gửi cho D1 để D1 gửi lại cho R. L đã hỏi D1 hàng nhận về là hàng gì, nếu không nói thật L sẽ bóc ra nên D1 đã nói cho L biết trong các gói đó là ma túy tổng hợp. Các viên nén ma túy tổng hợp được đựng vào các túi có bao bì như gói cà phê, bánh kẹo và các hộp nhựa hình trụ tròn kích cỡ khác nhau để gửi cho người mua ma túy. Khi L mở các thùng ma túy ra thì có 02 túi bị rách, các viên ma túy rơi ra có nhiều viên vỡ, D1 bảo L chụp ảnh các viên ma túy, L đã cho các viên ma túy vào lòng bàn tay và chụp ảnh gửi cho D1, D1 đã gửi cho R biết. R bảo D1 dồn các viên ma túy không bị vỡ cho vào túi dán kín lại để sau này gửi cho người mua ma túy, R sẽ nói khối lượng ma túy cụ thể với khách. L đếm được khoảng 1.000 viên ma túy bị vỡ, D1 báo cho R, R nói để cho nhóm của D1 sử dụng. Lần này, R còn gửi thêm 02 túi tinh thể màu trắng, là ma túy để gửi cho khách dùng thử, khi nào có địa chỉ cụ thể thì gửi đi cho người mua ma túy.

Sau khi L nhận được ma túy, R đã thông báo cho D1 tên, địa chỉ, số điện thoại của người mua ma túy kèm theo số lượng túi, hộp nhựa đựng ma túy. D1 đã nhắn tin cho L qua zalo nội dung này để L gửi ma túy theo chỉ dẫn của D1. Sau khi đóng đủ số lượng ma túy, L chụp ảnh lại gửi cho D1, D1 gửi cho R xác nhận đúng số lượng ma túy cần gửi. Sau khi được R xác nhận, L lấy các thùng cát tông cho các túi, hộp nhựa đựng ma túy vào trong từng thùng, dán kín, dán phong bì bên ngoài thùng ghi rõ tên, địa chỉ, số điện thoại của người mua ma túy. Thông tin người gửi ma túy bên ngoài các thùng này được ghi tên giả như “Thu”, “Phạm Văn Đ1”, địa chỉ là thành phố Đ, tỉnh L, số điện thoại 0898411541 (số điện thoại của D1 sử dụng, tên chủ thuê bao là Phan Cao D). D1 đã sử dụng số điện thoại này liên lạc với người mua ma túy trước khi gửi ma túy cho họ; cũng có lần L ghi số điện thoại 0931556585 của D1 kèm tên người gửi. Thông tin người nhận là tên, địa chỉ, số điện thoại R cung cấp. L đã mang tất cả các thùng đựng ma túy đến các nhà xe Phương T9, T, Tài T10 ở thành phố Đ, tinh L để gửi đi. Trước khi L gửi ma túy, D1 đã gọi vào các số điện thoại của người mua ma túy xác nhận, sau đó báo cho L ghi số điện thoại của người nhận vào phong bì dán ngoài các thùng đựng ma túy. Ngoài ra, L còn gửi 02 thùng có 10 túi ma túy ra H cho D1 theo thông tin người nhận là Nguyễn Trọng T cùng số điện thoại của T sử dụng, sau khi nhận được 02 thùng hàng này, D1 đã bảo T gửi cho người mua ma túy ở Nghệ An. L khai không nhớ đã gửi bao nhiêu thùng hàng có giấu ma túy như nêu trên.

Lần này, R cho D1 biết 01 túi nylon nhỏ có khoảng 1.000 viên ma túy, cho các túi nylon nhỏ này vào các túi to hơn bên ngoài có in hình là túi đựng cà phê, bánh kẹo và các hộp nhựa loại hộp đựng thuốc dạng viên, các túi nylon đựng ma túy là các túi, hộp nhựa to nhỏ khác nhau, những túi to có thể đựng đến 2.000 - 3.000 viên ma túy. Người này báo cho D1 biết đã ghi lại đủ số lượng các túi, các hộp của từng loại, trong mỗi loại có bao nhiêu ma túy; việc của D1 là lấy đúng số túi, số hộp nhựa theo từng loại mà R yêu cầu, chụp gửi lại xác nhận là đúng số lượng rồi đi gửi. D1 và L không kiểm đếm và không nhớ có bao nhiêu túi nhãn mác cà phê, bánh kẹo, hộp nhựa bên trong đựng ma túy nên không xác định được khối lượng ma túy; D1 được thông báo có 100 túi (loại 1.000 viên/01 túi), tiền công vận chuyển đã thỏa thuận là 1.000.000.000 đồng. Do có thêm L tham gia vận chuyển ma túy nên D thống nhất với D1 trả công cho L 120.000.000 đồng, số tiền còn lại sẽ chia cho 04 người là D1, T, D và Đ.

Đối với số viên ma túy MDMA bị vỡ, D1 đã bảo L gửi một ít ra H cho D1, T sử dụng, L cũng sử dụng trong số ma túy đó và gửi cho đối tượng có tên là D3 khoảng 50 viên, Cơ quan điều tra đã thu giữ số còn lại là 363,46 gam MDMA và 4,31 gam ma túy, loại Methamphetamine. Số ma túy này, D1 khai khoảng vài ngày sau thời điểm L đi nhận ma túy, R sẽ nhắn địa chỉ cụ thể để gửi cho khách ở Thành phố H, nhưng chưa kịp gửi thì đã bị bắt giữ. Như vậy, số ma túy này nằm trong tổng khối lượng của 100 túi ma túy mà D1, D, T và L đã vận chuyển và nhận tiền công nên không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 363,46 gam MDMA nhưng; phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng 4,31 gam Methamphetamine.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ được các viên nén màu nâu hình mặt con thú và các viên nén màu xanh hình kim cương nhưng không xác định được cụ thể số lượng từng loại viên, do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm với khối lượng 01 viên ma túy là khối lượng trung bình của 02 loại viên ma túy nêu trên là (0,441 gam +0,481 gam)/2 = 0,461 gam. Theo đó, khối lượng ma túy các bị cáo khai đã vận chuyển là 100.000 viên x 0,461 gam/viên = 46.100 gam.

Quá trình điều tra, Nhữ Mạnh L, Nhữ Thị Ánh D1, Phan Cao D và Nguyễn Trọng T khai nhận là phù hợp với nhau về diễn biến hành vi phạm tội, phù hợp với những tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra như: Kết quả xác minh tại Công ty B1; hình thức đóng gói; cách thức che giấu, hình ảnh trích xuất từ máy điện thoại thu giữ của các bị cáo xác định các túi, hộp nhựa đựng ma túy trong các thùng hàng; Công ty vận chuyển trong nước; địa chỉ, số điện thoại người nhận thu giữ được trong máy điện thoại của L và D1. Sau này, bị cáo T thay đổi lời khai, không biết bên trong các thùng hàng đã nhận và gửi là ma túy, việc đi nhận và gửi hàng theo yêu cầu của chị gái là D1. Tuy nhiên, việc thay đổi lời khai của bị cáo L là không có cơ sở.

Những người có tên, địa chỉ, số điện thoại ghi trên các thùng hàng đựng ma túy do bị cáo D1 và T gửi đi, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ C2 đã tiến hành xác minh xác định tên và các địa chỉ được ghi trên thùng đựng ma túy là không có thật; đã xác định chủ thuê bao của các số điện thoại và tiến hành lấy lời khai xác định họ không sử dụng những số điện thoại này và không biết các bị cáo D1 và T vận chuyển trái phép chất ma túy, bản thân họ cũng không liên quan và không vận chuyển trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được cũng như lời nhận tội của các bị cáo đủ cơ sở để kết luận Nhữ Mạnh L, Nhữ Thị Ánh D1, Nguyễn Trọng T và Phan Cao D vận chuyển trái phép 46.100 gam ma túy, loại MDMA và 4,31 gam ma túy, loại Methamphetamine. Hưởng lợi bất chính 1.000.000.000 đồng.

4. Hành vi vận chuyn trái phép 16.720,36 gam ma túy, loại MDMA của Nhữ Thị Anh D4, Nhữ Mạnh L, Phan Cao D và Nguyễn Trọng T:

Đầu tháng 12/2021, đối tượng có nickname R báo cho D1 biết đã gửi ma túy về Đ, Việt Nam. Thời điểm này, D1 cùng T đang ở H, D cũng không ở Đ nên D1 bảo T đi nhận ma túy. Chiều tối ngày 16/12/2021, L đến kho hàng của Công ty B1 ở đường B, thành phố Đ, tỉnh L để nhận ma túy thì nhân viên giao hàng báo không có hàng. L gọi báo cho D1 biết, D1 liên hệ với nhân viên bên kho hàng thì được biết hàng đã chuyển về kho ở đường H, thành phố Đ. Dung báo L1 sáng ngày hôm sau đến kho nhận hàng. Sáng ngày 17/12/2021, L đến kho hàng, nhận 01 thùng hàng có khối lượng 18kg. Khi đang vận chuyển về thì bị bắt quả tang, thu giữ 01 thùng hàng bên trong chứa 16.720,36 gam ma túy, loại MDMA.

Quá trình điều tra, giai đoạn đầu Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Phan Cao D, Nhữ Mạnh L khai nhận phù hợp với nhau về thời gian, phương thức trao đổi, nhận hàng là ma túy. Giai đoạn sau, các bị cáo thay đổi lời khai, Phan Cao D khai không trực tiếp tham gia và chưa được nhận tiền công chuyến này nhưng D biết có việc Rồng gửi ma túy về Việt Nam. Nguyễn Trọng T khai chỉ biết D1, D và L vận chuyển ma túy còn T không tham gia. Nhữ Mạnh L khai không biết bên trong thùng hàng có giấu ma túy. Việc thay đổi lời khai của các bị cáo mâu thuẫn với lời khai ban đầu và mâu thuẫn với tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ căn cứ kết luận các bị cáo L, D1, D và T vận chuyển trái phép 16.720,36 gam ma túy, loại MDMA.

Về xác định số tiền các bị cáo hưởng lợi bất chính:

Kết quả điều tra xác định được có 04 người đã chuyển vào tài khoản của Phan Cao D, tổng số 1.727.500.000 đồng, cụ thể là: Ngày 22/11/2021, Nguyễn Anh T11 (sinh năm 1983, HKTT: số B đường G khu phố C, phường P, Quận I, Thành phố H) chuyển 800.000.000 đồng; Ngày 15/12/2021, Vũ Anh S (sinh năm 1991, HKTT: T, Quán T, K, Hải Phòng) chuyển 377.500.000 đồng; Ngày 10/12/2021, Nguyễn Duy C1 (sinh năm 1989, HKTT: Xóm H V, Y, Nghệ An) chuyển 300.000.000 đồng; Ngày 29/11/2021, Trần Khắc T12 (sinh năm 1971, HKTT: Xóm H V, Y, Nghệ An) chuyển 250.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Phan Cao D khai chỉ nhận được 677.500.000 đồng, số tiền này do đối tượng R trả công cho D và đồng bọn vận chuyển ma túy. D đã chuyển cho Nhữ Thị Ánh D1 495.000.000 đồng, đó là tiền công của D1, L và T; D được hưởng số tiền còn lại là 182.500.000 đồng, số tiền 800.000.000 đồng và 250.000. 000 đồng là tiền nguyên vật liệu và tiền công của D đi làm nội thất Karaoke ở thành phố C và Tây Ninh trong khoảng thời gian tháng 4 đến tháng 10/2021. D không nhớ tên, địa chỉ của người đã trả số tiền này. Nguyễn Tuấn A, Trần Khắc T12 và D không quen biết, không có quan hệ làm ăn với nhau.

Kiểm tra dữ liệu điện thoại của D sử dụng do nhà mạng cung cấp và lịch sử liên lạc của số điện thoại 0931273195 xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 08/6/2021 đến ngày 30/11/2021, D ở thành phố Đ và H; huyện C, T; huyện đảo P, Kiên Giang, không có lịch sử ở Cao Bằng và Tây Ninh. Kiểm tra, thu giữ, trích xuất dữ liệu lưu trữ trong máy điện thoại của Nhữ Thị Ánh D1 trao đổi tin nhắn zalo giữa D1 và đối tượng có nickname R và lời khai của D1, xác định: Đối tượng có nickname R đã chuyền cho D tiền công vận chuyển ma túy là 800.000.000 đồng; nội dung ngày 26/11/2021 người này xác nhận tiền công vận chuyển ma túy của 03 chuyến là 1.200.000.000 đồng, đã chuyển trước 100.000.000 đồng, sau đó chuyển tiếp 800.000.000 đồng (ngày 22/11/2021) và còn lại 300.000.000 đồng. D chuyển cho D1 495.000.000 đồng là tiền công vận chuyển ma túy của D1, T và L, D1 đã chuyển cho L 25.000.000 đồng, còn lại D1 sử dụng để chi tiêu cá nhân cho D1 và T. Việc D khai số tiền 800.000.000 đồng không phải là tiền công vận chuyển ma túy là không có căn cứ.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận toàn bộ số tiền 1.727.500.000 đồng chuyển vào tài khoản ngân hàng V2 của Phan Cao D là tiền công vận chuyển ma túy, trong đó có 16.500.000 đồng trả phí vận chuyển trong nước cho D1. Các bị cáo hưởng lợi trái phép 1.711.000.000 đồng, cụ thể D hưởng lợi trái phép 1.216.000.000 đồng, D1 và T mỗi bị cáo hưởng lợi trái phép 235.000.000 đồng, L hưởng lợi trái phép 25.000.000 đồng.

Về xác định khối lượng ma túy các bị cáo đã vận chuyển:

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận, chuyến thứ nhất vận chuyển 01 kg Ketamine và 09 túi ma túy, chuyến thứ hai là 10 túi ma túy, chuyến thứ ba là 100 túi ma túy, tổng cộng là 119 túi ma túy và 01 kg Ketamine, được hưởng 1.200.000.000 đồng tiền công. Thực tế, số tiền cồng D đã nhận được là 1.727.500.000 đồng, trong đó tiền phí vận chuyển trong nước là 16.500.000 đồng, còn lại tiền công vận chuyển ma túy là 1.711.000.000 đồng, trừ số tiền công vận chuyển 119 túi và 01 kg ketamine là 1.200.000.000 đồng còn lại 511.000.000 đồng tương đương 51 túi ma túy hợp có khối lượng 23.205 gam (51.000 viên x 0,455 gam/viên = 23.205 gam). Đây chính là số ma túy các bị cáo đã vận chuyển trong 06 thùng hàng (chuyến 2 là 02 thùng và chuyến 3 là 04 thùng), do vậy trong mỗi thùng còn có thêm 3.867,5 gam (23.205 gam/6 thùng - 3.867,5 gam) nhưng các bị cáo D1, T và L không được biết và không được trả công, D là người nhận số tiền 1.727.500.000 đồng là toàn bộ tiền công vận chuyển ma túy.

Từ căn cứ trên xác định được tổng khối lượng ma túy thực tế các bị cáo đã vận chuyển trái phép là 95.934,67 gam, trong đó có 94.930,36 gam MDMA, 1.000 gam Ketamine và 4,31 gam Methamphetamine. Cụ thể, tại hành vi thứ nhất các bị cáo đã vận chuyển khối lượng ma túy là 1.000 gam Ketamine + 09 túi tương đương 4.095 gam MDMA = 5.095 gam; Tại hành vi thứ hai là 10 túi tương đương 4.810 gam + 17 túi (51 túi/3) trong hai thùng hàng tương đương 7.735 gam = 12.545 gam MDMA; Tại hành vi thứ ba là 100 túi tương đương 46.100 gam MDMA + 34 túi (51 túi -17 túi = 34 túi) trong bốn thùng hàng tương đương 15.470 gam MDMA + 4,31 gam Methamphetamine = 61.574,31 gam; Tại hành vi thứ tư bị bắt quả tang là 16.720,36 gam MDMA.

Đối với hành vi bị phát hiện bắt quả tang, bị cáo D khai không được ai thông báo cho biết có ma túy vận chuyển về Việt Nam nhưng biết có việc ma túy đã gửi về Việt Nam, bị cáo không phải chịu trách nhiệm về khối lượng ma túy đã bị thu giữ. Quá trình điều tra xác định, D là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác cùng vận chuyển ma túy; gửi các thông tin người nhận cho đối tượng có nickname R và nhận tiền công vận chuyển ma túy, sau đó chuyển lại tiền công cho các bị cáo khác. Như vậy, có căn cứ xác định bị cáo là đồng phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy mà các bị cáo đã tham gia vận chuyển.

Ngay sau khi bị bắt, bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Sau này, bị cáo thay đổi lời khai và cho rằng không được tham gia bàn bạc việc vận chuyển ma túy, không trực tiếp tham gia vận chuyển ma túy, bị cáo biết việc vận chuyển ma túy là do bị cáo D1 nói lại, nội dung này mâu thuẫn với lời khai ban đầu. Quá trình điều tra, các bị cáo khai T cùng tham gia bàn bạc và thống nhất việc vận chuyển ma túy để lấy tiền công. Khi L gửi ma túy ra H, T đã đi gửi số ma túy này cho khách ở thành phố V, Nghệ An. Ngày 16/12/2021, T nói với D1 bảo L đi nhận ngay thùng hàng đựng ma túy. D đã chuyển khoản tiền công vận chuyển ma túy của Tốt qua tài khoản của D1, D1 thông báo cho T biết và giữ lại chi tiêu chung. Như vậy, có căn cứ xác định bị cáo T là đồng phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng khối lượng ma túy mà các bị cáo đã tham gia vận chuyển.

Ngay sau khi bị bắt quả tang, bị cáo L đã khai đi nhận và gửi ma túy giúp chị gái là Nhữ Thị Ánh D1. Sau này, bị cáo thay đổi lời khai, cho rằng không biết trong thùng hàng đi nhận giúp chị gái có ma túy, chỉ làm theo yêu cầu của chị gái; D1 đã nói cho bị cáo biết bên trong các gói bánh, kẹo, hộp nhựa đựng ma túy, đồng thời bị cáo đã cho các viên ma túy lên bàn tay của mình và chụp lại gửi cho D1, nên L biết thùng hàng mình đi nhận về là ma túy nhưng vẫn sắp xếp, đóng gói hàng để gửi đi cho người mua ma túy theo yêu cầu của D1. Ngày 16/12/2021, khi được D1 nhờ đi nhận thùng hàng, L biết là đi nhận thùng hàng ma túy và tiếp tục thực hiện việc đi nhận thùng ma túy để nhận tiền công. Việc bị cáo thay đổi lời khai là không có căn cứ, mâu thuẫn với lời khai ban đầu và các tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận bị cáo L là đồng phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng ma túy đã hai lần tham gia vận chuyển.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2023/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L, Tuyên bố: Các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ Mạnh L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58, Điều 40 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T và Nhữ Thị Ánh D1.

Xử phạt bị cáo Phan Cao D tử hình.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T tử hình.

Xử phạt bị cáo Nhữ Thị Ánh D1 tử hình.

2. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 40 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nhữ Mạnh T tử hình.

Áp dụng khoản 4 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Cùng ngày 30/8/2023, các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L kháng cáo cùng nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng hành vi phạm tội của các bị cáo. Tuy nhiên, hình phạt tử hình đối với các bị cáo là quá nghiêm khắc. Vì vậy, các bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Phan Cao D trình bày lý do xin giảm nhẹ hình phạt là đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Bị cáo Nguyễn Trọng T trình bày lý do xin giảm nhẹ hình phạt là bị cáo thấy được hành vi vi phạm pháp luật nên đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; Bị cáo đã chấp hành xong nghĩa vụ quân sự, gia đình có công với cách mạng.

Bị cáo Nhữ Thị Ánh D1 trình bày lý do xin giảm nhẹ hình phạt là có mẹ già yếu lại thường xuyên bị bệnh, bị cáo có con nhỏ hiện không ai chăm sóc. Trong vụ án này, bị cáo và Nhữ Mạnh L là chị em ruột cùng bị tuyên án tử hình, gia đình chỉ có 2 chị em.

Bị cáo Nhữ Mạnh L trình bày lý do xin giảm nhẹ hình phạt là bị cáo không được bàn bạc với các bị cáo khác trong vụ án này mà chỉ được Nhừ Thị Ánh D1 nhờ lấy giúp, sau đó mới biết là ma túy. Bị cáo và Nhữ Thị Ánh D1 là chị em ruột cùng bị xét xử trong vụ án này, gia đình chỉ có 2 chị em.

Đại diện Viện Kim sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H có ý kiến:

Đơn kháng cáo của bị cáo đúng thời hạn nên vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng, đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với từng bị cáo. Trong vụ án này, số lượng ma túy mà các bị cáo vận chuyển đặc biệt lớn. Tại phiên tòa, bị cáo cũng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Vì vậy, hình phạt tử hình đối với các bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 355 Bộ luật Hình sự, bác kháng cáo của các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Phan Cao D trình bày: Tại phiên tòa, bị cáo D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện việc ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên Luật sư không tranh luận về tội danh và số lượng ma túy mà bị cáo vận chuyển. Tại phiên tòa, bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật, xem xét về hình phạt đối với bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo D thống nhất nội dung bào chữa của Luật sư và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trọng T trình bày: Thống nhất về tội danh xét xử đối với bị cáo T nên Luật sư không tranh luận về vấn đề này. Bị cáo T đã thành khẩn khai báo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo T thống nhất nội dung bào chữa của Luật sư và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Nhữ Thị Ánh D1 trình bày: Thống nhất về tội danh xét xử đối với bị cáo D1 nên Luật sư không tranh luận về vấn đề này. Mặc dù, vụ án vận chuyển ma túy này có số lượng lớn nhất từ trước tới nay tại tỉnh L. Tuy nhiên, bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khi có 2 người chồng và 4 con. Trong vụ án này, 2 chị em là Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ M cùng bị tuyên hình phạt tử hình. Vì vậy, đề nghị cho bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật, giảm hình phạt cho bị cáo D1.

Bị cáo D1 thống nhất nội dung bào chữa của Luật sư và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Nhữ Mạnh L trình bày: Thống nhất về tội danh xét xử đối với bị cáo L nên Luật sư không tranh luận về tội danh và hành vi phạm tội. Trong vụ án này, bị cáo L chỉ tham gia vận chuyển ma túy 1 lần, còn 3 lần trước thì không tham gia. Việc vận chuyển ma túy thì bị cáo không được bàn bạc trước, nhưng do D1 đang ở H (bị nhiễm bệnh Covid 19 năm 2021) không thể về L nhận hàng được nên mới nhờ L nhận thay mà không nói là ma túy. Vì là chị em ruột nên L mới làm giúp chị dẫn đến phạm tội mà hoàn toàn không được hưởng lợi. Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ Mạnh L cùng bị tuyên hình phạt tử hình, gia đình chỉ có 2 chị em. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo L xuống tù chung thân để thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo L thống nhất nội dung bào chữa của Luật sư và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ trong vụ án, Hội đng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L kháng cáo đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xác định Tòa án xét xử các bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng nhưng hình phạt quá nghiêm khắc nên các bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[3] Đối chiếu với các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định:

Phan Cao D quen biết với Nhữ Thị Ánh D1 và Nguyễn Trọng T. D nói có bạn là Nguyễn Văn Đ đang ở nước ngoài quen biết đối tượng tên nickname là R (người Việt Nam sống ở Hà Lan) có ma túy tổng hợp muốn gửi về Việt Nam, thuê người nhận và vận chuyển cho người mua ma túy tại Việt Nam với tiền công vận chuyển 10.000.000 đồng/01kg Ketamine và 10.000.000 đồng/01 gói (1.000 viên ma túy tổng hợp). D, D1 và T đã bàn bạc và thống nhất việc nhận ma túy gửi từ nước ngoài về chia ra rồi đóng vào các thùng hàng gửi cho người mua ma túy theo chỉ đạo của R. Tiền công được chia đều cho những người tham gia vận chuyển ma túy ở Việt Nam và Đ ở nước ngoài. Riêng Nhữ Mạnh L tham gia 02 lần là lần thứ 3 (cuối tháng 11/2021) và lần thứ 4 (đầu tháng 12/2021) thi bị bắt quả tang.

Cụ thể, trong khoảng thời gian từ tháng 10/2021 đến ngày 17/12/2021, đối tượng có nickname R đã sử dụng tên Nguyễn Anh T13, địa chỉ MEIJHORST 12546357 HL NIJMEGEN, Hà Lan để gửi khối lượng lớn ma túy tổng hợp về Việt Nam qua đường hàng không. Ma túy được gửi từ Hà Lan về Bưu cục sân bay N, cụ thể: Chuyến thứ nhất được chuyển về H cho Phan Cao D do một đối tượng tên T6 là người nhận thùng hàng có chứa ma túy; 03 chuyến sau đó thông qua các Công ty vận chuyển hàng hóa chuyển vào Đ, L chuyển cho Nhữ Thị Ánh D1.

Sau khi nhận được thùng hàng cất giấu ma túy, Nhữ Thị Ánh D1 đã tự mình hoặc yêu cầu Nhữ Mạnh L chia các gói đựng ma túy và gửi cho những người mua ma túy trên nhiều tỉnh, thành phố trong nước để nhận tiền công. Phan Cao D, Nhữ Thị Ánh D1, Nguyễn Trọng T và Nhữ Mạnh L đã vận chuyển trái phép tổng khối lượng là 95.934,67 gam ma túy, trong đó 94.930,36 gam ma túy loại MDMA, 1.000 gam ma túy loại Ketamine và 4,31 gam ma túy loại Methamphetamine.

[4] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[5] Xét kháng cáo của các bị cáo, thấy rằng:

[5.1] Các bị cáo Nhữ Thị Ánh D1, Phan Cao D và Nguyễn Trọng T đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy 4 lần, tổng cộng là 1.000 gam Ketamine, 4,31 gam Methaphetamine và 94.930,36 gam MDMA. Bị cáo Nhữ Mạnh L cùng Nhữ Thị Ánh D1, Phan Cao D và Nguyễn Trọng T đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy 2 lần, tổng cộng là 4,31 gam Methaphetamine và 16.720,36 gam MDMA.

[5.2] Quá trình điều tra, các bị cáo Nhữ Thị Ánh D1, Phan Cao D, Nguyễn Trọng T và Nhữ Mạnh L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng, các bị cáo Nhữ Thị Ánh D1, Phan Cao D, Nguyễn Trọng T và Nhữ M đều phạm tội 2 lần trở lên nên thuộc trường hợp quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo L đã có 01 tiền án, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội mới nên thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52.

[5.3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ làm tăng tệ nạn nghiện hút ma túy đang được toàn xã hội cùng chung tay ngăn chặn, bài trừ, mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác trong xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt các bị cáo hình phạt tử hình là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo cũng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt.

[5.4] Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L và nội dung bào chữa của Luật sư của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6] Các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1, Nhữ Mạnh L phải chịu án phí phúc thẩm. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ Mạnh L.

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2023/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

3. Tuyên bố bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ Mạnh L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

4. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58, Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,

4.1. Xử phạt bị cáo Phan Cao D tử hình.

4.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T tử hình.

4.3. Xử phạt bị cáo Nhữ Thị Ánh D1 tử hình.

5. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nhữ Mạnh L tử hình.

6. Áp dụng khoản 4 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ M để đảm bảo thi hành án.

7. Trong thời hạn 7 (bảy) ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ Mạnh L được quyền làm đơn xin ân giảm án tử hình gửi Chủ tịch Nước.

8. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Phan Cao D, Nguyễn Trọng T, Nhữ Thị Ánh D1 và Nhữ Mạnh L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

9. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 979/2023/HS-PT

Số hiệu:979/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về